PHÁP HỘI NIỆM PHẬT A DI ĐÀ
Tịnh Thất Quan Âm
 

TÂN BIÊN QUÁN ÂM LINH CẢM LỤC Phần 2


THIÊN THỨ NHẤT
BẠT TRỪ BỆNH KHỔ

1. Vào triều đại nhà Tấn, niên hiệu Hưng Ninh, có vị Sa môn, Pháp hiệu là Trúc Pháp Nghĩa là một vị thạc đức đạo hạnh. Thời gian đầu lúc mới tu học, Ngài đến cư trú tại Ninh Sơn để chuyên tâm nghiên cứu các Kinh Luật luận. Hàng Phật tử xuất gia theo Ngài tu học thường xuyên có số trên trăm vị. Vào niên hiệu Hàm An, năm thứ hai nhà Tấn, Ngài bị chứng bệnh trầm khí, kéo dài trong thời gian rất lâu, Ngài nhất tâm thành kính quy hướng về đức Đại bi Quán Thế Âm, một lòng xưng niệm danh hiệu của Bồ tát. Một hôm, Ngài nằm mộng thấy có người cầm dao mổ ruột của mình, rồi rửa ráy lục phủ ngũ tạng của Ngài. Bấy giờ thần thức trong mộng thấy rõ các vật bất tịnh kết tụ trong tạng phủ rất nhiều, người ấy sau khi rửa sạch các bộ phận trong cơ thể Ngài thì đem sắp xếp theo vị trí cũ trở lại và bảo Ngài Pháp Nghĩa rằng: “Bệnh của Ông bây giờ đã khỏi hẳn rồi”. Pháp Nghĩa thức dậy, quả nhiên cảm thấy trong người thật thư thái, tất cả bệnh bỗng nhiên dứt sạch. Sự tích trên là do Quan Thượng Thơ Phó Lượng, triều Nhà Tống soạn thuật lại. Thượng Thơ thường nói với các thân hữu rằng mình là bạn thân của ngài Trúc Pháp Nghĩa. Chính Ngài Trúc Pháp Nghĩa lúc còn sanh tiền cũng thường nói đến việc được chữa bệnh trong mộng cho nhiều người nghe. Mọi người nghe xong chuyện của Ngài, không ai chẳng sanh tâm cung kính và tán thán vì những việc chưa từng có đã xuất hiện trong đời do niềm tin nơi đức Quan Âm. (Trích Cao Tăng Truyện - Tập 2).

2. Vào Triều đại Nguyên Ngụy, có một Tăng nhân, pháp hiệu là Thích Đạo Thái, ở Tịnh xá Hoành Dương, huyện Thường Sơn. Vị Tăng nhân này từng nằm mộng thấy có người đến bảo rằng: “Số mạng của Ông sẽ kết thúc vào lúc 42 tuổi.” Đến năm đó, Thầy mắc bệnh nặng, trong tâm tự nghĩ chắc là không qua khỏi nên Thầy đem y bát và tất cả bạc tiền, đồ đạc, v.v... làm lễ Trai tăng bố thí rất lớn để cầu phước. Có người bạn đồng tu thấy thế bèn nói: “Tôi thấy trong Kinh Phổ Môn, chính kim khẩu của Bổn Sư Thích Tôn dạy Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: Nếu có người nào thọ trì danh tự của 62 ức hằng hà sa Bồ tát, lại thêm suốt đời đem thức ăn uống, y phục, đồ nằm để cúng dường, theo ý ông nghĩ sao? Công đức của thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy có được nhiều chăng? Vô Tận Ý Bồ tát thưa: “Rất nhiều, thưa Thế Tôn!”. Đức Phật dạy tiếp: “Nếu lại có người thọ trì danh hiệu của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát cho đến lễ bái cúng dường, chỉ trong một thời thì phước đức của hai người ấy đồng nhau không khác.” Thầy Thích Đạo Thái nghe nói thế có phần cảm ngộ, liền chí thành quy hướng nơi Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, ngày đêm khẩn thiết trì niệm danh hiệu của Ngài không hề giải đãi. Thầy tinh tấn thực hành trải qua bốn ngày đêm, bấy giờ lúc Ngài đang ngồi trong mùng, bỗng nhiên thấy có quang minh từ ngoài cửa chiếu vào và thấy hai bàn chân của Quán Âm Đại Sĩ bằng hoàng kim sáng rực, chiếu khắp trong thất. Thầy Thích Đạo Thái lật đật vén mùng, quỳ xuống đất cúi đầu đảnh lễ. Khi ngước lên thì cảnh tượng lạ lùng trang nghiêm ấy đã biến mất, lòng Thầy buồn vui lẫn lộn, toàn thân toát mồ hôi ướt đầm, ngay sau đó liền cảm thấy trong người nhẹ nhàng thư thái, chứng trọng bệnh nói trên liền được dứt hẳn. (Trích Cao Tăng Truyện - tập 2).

3. Ở tại Hà Tây, có một vị Phật tử là Vương Thư Cừ Mộng Tốn, từ thuở nhỏ đã phát tâm quy hướng chánh Pháp của Như lai. Một lần nọ, Ông bị bệnh nặng, nhờ Y Ba Lập Bồ Tát ứng hiện bảo rằng: “Đức Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát rất có duyên với chúng sanh cõi Ta bà, ngươi nên phát tâm trì tụng Phẩm Phổ Môn thì bệnh chắc chắn sẽ khỏi.” Mộng Tốn vâng lời thực hành theo sự chỉ bảo của Bồ tát thì quả nhiên được lành bệnh. Do Ông là người có địa vị vào thời ấy ở xứ Hà Tây nên sự kiện tụng kinh Phổ Môn được lành bệnh của Ông, tất cả dân chúng trong vùng đều biết, ai nấy đều noi theo gương Ông mà quy hướng Quán Thế Âm Bồ Tát và tụng kinh Phổ Môn. Vì nhân duyên ấy mà Kinh này đặc biệt lưu hành rộng rãi khắp xứ Hà Tây. Đây cũng chính là lý do phẩm phổ Môn còn được gọi là Kinh Quán Thế Âm. (Trích Pháp Hoa Truyện ký).

4. Vào đời Lưu Tống, có Phật tử tên là Thiện Tín, người ở Ngô Hưng, đối với Tam bảo rất có tâm tin kính. Một hôm, Thiện Tín mắc bệnh thương hàn nên không một ai dám đến gần săn sóc vì sợ lây nhiễm. Thiện Tín rất buồn khổ không biết tính thế nào, chỉ nghĩ rằng có một cách duy nhất là thành kính chuyên niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Ông trì niệm Thánh hiệu Bồ Tát chỉ trong thời gian ngắn thì bỗng có một Tăng nhân đến nhà bảo rằng: “Ta đem thứ thuốc này để cứu độ đệ tử.” Nói vừa dứt lời liền lấy trong túi ra một hộp thuốc tán đưa cho Thiện Tín bảo uống. Thiện Tín vâng lời, uống vào thì bệnh liền khỏi hẳn. (Trích Cao tăng Truyện - Tập 1).

5. Triều đại Lưu Tống có Ni sư Phiền Tảo họ Lộ, người ở Ngô Quân, con gái của An Tung Tảo. Lúc hơn 10 tuổi. Ni sư bị bệnh nên phụ thân của Ni sư nghe nói nơi nào có danh y đều đến rước về nhà chữa bệnh cho con. Vì thế hầu hết lương dược, miệng của Ni sư đều nếm qua nhưng bệnh trạng chẳng những không giảm mà còn ngày một tăng thêm. Lúc bấy giờ, Thầy Thích Pháp Tế là một Tăng nhân trong vùng nói với An Tung Tảo rằng: “Theo ý của bần Tăng, sợ e bệnh của Tiểu Thơ là do nơi nghiệp chướng, nên thuốc thế gian khó bề trị lành được. Trong Kinh Phật có dạy: “Nếu chúng sanh nào bị tai nạn, bệnh khổ, v.v... chí thành quy y Tam Bảo, sám hối cầu nguyện, đều được Từ lực của Tam bảo gia hộ cứu tế. Nếu Ngài có thể phát tâm chí thành, khẩn thiết sám hối, nguyện cầu để tẩy trừ trần cấu cho Tiểu Thơ thì bệnh sẽ được thuyên giảm.” An Tung vâng lời liền cho thiết lập bàn hương án ở giữa nhà, thờ tượng Quán Thế Âm Bồ Tát thật thanh tịnh trang nghiêm, sau đó tắm gội sạch sẽ, trai giới thanh tịnh, đến trước Phật đài, vì con gái mình sám hối cầu nguyện, lại cho người dìu bệnh nhân đến trước bàn Phật, thành kính cúi đầu xưng niệm danh hiệu Bồ Tát liên tục không gián đoạn. Thực hành như vậy trong suốt bảy ngày. Đến đầu hôm ngày thứ bảy, bỗng nhiên thấy tượng Quan Âm sắc vàng, cao chừng một thước, giơ tay xoa trên thân của bệnh nhân ba lần, tức thì Cô cảm thấy từ đầu đến chân rất thư thái, nhẹ nhàng, chứng bệnh trầm kha trước kia bỗng nhiên biến mất. Sau khi được sự linh ứng như vậy, Cô cầu xin cha mẹ cho đi xuất gia, và tu hành rất tinh tiến. Cô thường trì tụng Kinh Pháp hoa và trường trai. Trải qua 37 năm, thường chuyên tâm quán tưởng, nguyện đem công đức tụng kinh lạy Phật cầu sanh lên cung trời Đâu Suất. Niên hiệu Niên gia năm thứ 16, Ni sư đến Kinh đô để tạo kinh điển. Về sau Ni sư viên tịch nơi nào không được rõ. (Trích Tỳ Kheo Ni truyện).
6. Vào triều đại Lưu Tống, Sa môn Thích Đàm Vĩnh ngụ tại chùa Trường Cang, vốn là người xứ Hội Kê. Xuất gia từ lúc niên thiếu, Thầy là vị Cao tăng nghiêm trì giới luật, tu hành tinh tấn. Hàng ngày, Thầy tụng kinh hơn mười ngàn lời, lại luôn dùng nhiều phương tiện thiện xảo tuyên dương pháp Đại thừa, nhiếp hóa vô lượng chúng sanh. Nhưng chẳng may, Thầy lại mắc phải chứng bệnh ghẻ khắp mình, lở loét đau nhức, tuy chữa trị nhiều năm mà bệnh vẫn không khỏi. Trong Thiền thất của Thầy có thờ một pho Tượng Quán Thế Âm. Suốt ngày đêm, Thầy dốc lòng chí thành lễ bái, cầu xin sớm được lành bệnh. Một ngày nọ, lúc đang ở trong Tịnh thất, Thầy bỗng thấy một con rắn leo lên vách tường rồi bò lên nóc nhà. Một lúc sau, một con chuột từ nóc nhà rơi xuống đất, toàn thân nó ướt đẫm, dường như đã chết, chắc hẳn nó vừa bị con rắn ban nãy cắn. Động lòng trắc ẩn, Thầy Đàm Vĩnh vội lấy chiếc thẻ tre cạo bỏ lớp nước bọt trên người con chuột, mong cứu nó sống lại. Lúc sắp vứt bỏ miếng thẻ tre cạo nước bọt ấy, bỗng nhiên Thầy sực nhớ trước kia có người từng nói nếu ai bị ghẻ lở mà tìm được nước bọt trên thân con chuột bị rắn cắn mà trét lên chổ ghẻ lỡ thì chắc chắn chổ ghẻ lỡ đó sẽ lành. Thầy lập tức lấy phần nước bọt cạo trên thân chuột thoa lên chổ ghẻ lỡ của mình. Thật lạ lùng, khi Thầy vừa thoa xong thì chuột kia cũng sống lại và bỏ chạy đi nơi khác. Chỉ trong một đêm thì bệnh ghẻ của Thầy tự nhiên lành hẳn. Bấy giờ Thầy mới nhận ra sự việc rắn cắn chuột đều là do sự thành tâm cầu khẩn Đức Quan Âm hàng ngày của Thầy nên được Bồ tát cảm ứng, thị hiện cứu độ như vậy. Sự việc này được nhanh chóng lưu truyền trong dân chúng và giới Phật tử, ai cũng cho là chuyện hy hữu và đều bàn tán khắp nơi tạo thành làn sóng dư luận chấn động đến hoàng cung, Quốc vương, các bậc Đại thần, Vương tử, v.v... đều khen là việc chưa từng có. Thầy Thích Đàm Vĩnh hưởng thọ đến 81 tuổi và viên tịch tại chùa Trường Cang. (Trích Cao Tăng truyện - Tập 1).

7. Triều đại Nhà Tề có một người tên Kiến An Vương bị bệnh ghẻ lở không thuốc gì trị được. Người ấy ngày đêm khẩn thiết chí thành chuyên niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm ngày đêm không dứt. Một đêm nọ, Ông nằm mộng thấy Đại sĩ dùng tay xoa thuốc lên những nơi bị ghẻ lở cho mình. Sáng hôm sau, lúc thức dậy Ông thấy những nơi bị ghẻ lở đều đã lành hẳn. Mọi người khi nghe thấy đều lấy làm lạ và cùng ngợi khen. Việc ấy được lan truyền khắp nơi, những người đương thời do đó phát tín tâm quy hướng về Quan Âm Đại sĩ rất đông. (Trích Cảm ứng truyện)

8. Triều đại nhà Lương có một vị Sa môn là Thích Pháp Kiều, người ở Trung sơn. Thầy xuất gia từ lúc nhỏ nên đối với việc tụng Kinh niệm Phật, Thầy rất mực tinh tấn nhưng khổ nổi âm thanh của Thầy không được lôi cuốn, thiếu chất Thiền vị. Bấy giờ, Thầy bèn phát nguyện tuyệt thực sám hối, chí thiết cầu nguyện quy mạng nơi Đức Quan Thế Âm. Trải qua suốt bảy ngày đêm, Thầy kiền thành lễ bái xưng niệm không trễ lười, mong cầu được hiện báo. Bạn đồng học thấy vậy hết sức ngăn cản nhưng không một ai có thể lay chuyển được quyết tâm của Thầy. Đến ngày thứ Bảy, Thầy cảm thấy cổ họng thông suốt, liền lấy nước súc miệng rồi nói rằng: “Tôi đã được sự ứng nghiệm rồi”. Sau đó, Thầy tụng ba biến kinh, âm thanh trong trẻo, ấm áp vang xa suốt một dặm đường. Mọi người bấy giờ nghe nói đến việc này đều kinh ngạc ngợi khen, đua nhau đến Chùa để mục kích và nghe Thầy tụng kinh. Từ ấy về sau, mỗi ngày Thầy đều tụng Kinh đến vài mươi vạn lời, âm thanh ai nhã thông suốt ấy đến lúc Thầy 90 tuổi vẫn không suy giảm và thay đổi. (Trích Cao Tăng truyện - Tập 1).

9. Triều nhà Tùy có vị Sa môn Hồng Mãn, người ở An Định. Lúc còn ở thế tục, Thầy mắc phải chứng bệnh thời khí, hai chân co quắp, không thể đi đứng được. Thường ngày, Thầy thành kính chuyên niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm. Một hôm, bỗng có một vị Cao Tăng, tay bưng Tịnh bình đứng trước mặt Thầy. Hồng Mãn lập tức cúi đầu thi lễ, thưa hỏi: “Đại Sư từ đâu đến?”. Vị Tăng từ tốn trả lời: “Ta thấy ngươi thường ngày thành kính khẩn thiết xưng niệm danh hiệu của Ta, nên đến đây cứu giúp. Sở dĩ ngươi mắc bệnh như vậy là do tiền thân kiếp trước, ngươi hay trói cột sinh mạng loài vật, do dư báo ấy mà mắc bệnh như vậy. Bây giờ hãy nhắm mắt lại, Ta sẽ trị bệnh cho.” Hồng Mãn vâng lời, ngay khi ấy Thầy có cảm giác trên đầu gối mình hình như có người nhổ cây đinh vài tấc ra vứt bỏ, Thầy thấy hai chân như có sức bật, trở lại bình thường và Thầy đứng dậy được. Lúc mở mắt ra làm lễ tạ ơn thì vị Tăng nói trên đã biến mất. Thầy biết đó là Bồ tát thị hiện cứu độ mình nên từ đó phát nguyện không cưới vợ, ở tại gia tu hành ngày càng tinh tiến. Dù không nghiên cứu kinh điển, nhưng tự nhiên Thầy lại thông suốt được pháp môn thiền quán. Mỗi khi tĩnh tọa, có thể trải qua suốt bảy ngày, vẫn an nhiên bất động. Đến niên hiệu Khai Hoàng, nhà Tùy, Thầy đến xuất gia tại chùa Cứu Độ. (Trích Cao tăng truyện - Tập 2).

10. Tương truyền Sử Tuần là một người tài ba lỗi lạc, học vấn uyên thâm, đương thời không người sánh kịp, nhưng Ông lại là người không tin Phật pháp và thường bài bác rằng: “Phật là người, không cần thờ.” Về sau Ông bị chứng bệnh hai chân tự nhiên bại liệt, ngồi mãi một chổ không di chuyển được. Ông nhờ người tìm hết danh y này đến danh y khác, thậm chí còn thiết lễ cầu đảo quỷ thần để tìm phương thuốc chữa trị nhưng tất cả đều vô hiệu. Lúc bấy giờ, người bạn thân của Ông là Triệu Văn đến thăm, khuyên Ông rằng: “Đức Quán Âm Bồ Tát là đấng Đại từ Đại bi, thường tầm thinh cứu khổ. Nếu chúng sanh nào bị tai nạn, bệnh hoạn, mà chí thành cầu nguyện, xưng niệm danh hiệu Ngài thì chắc được sự linh ứng. Nay bệnh của Anh đã chạy chữa đủ cách, cúng tế Thánh Thần rất nhiều cũng không có kết quả, vậy tại sao Anh không phát tâm tạc tượng Đại Sĩ, lễ bái cúng dường để cầu cho bệnh khổ được tiêu trừ?” Sử Tuần vì bệnh quá ngặt nghèo nên y theo lời, sai rước thợ đúc tượng Quan Âm Bồ Tát. Khi pho tượng đã hoàn thành thì Ông nằm mộng thấy Quán Âm Bồ Tát, tướng hảo trang nghiêm hiện trên hư không. Lúc thức dậy, nghĩ lại những lời nói sai lầm và xấc xược xưa kia của mình thì cảm thấy vô cùng hối hận. Từ ấy, Ông hết lòng kính tin Phật pháp, mỗi ngày đều hết sức tinh tấn, lễ bái cúng dường pho tượng Đức Quan Âm đã đúc thờ trong nhà và trì niệm danh hiệu Đại Sĩ không gián đoạn. Một thời gian sau, chứng bại liệt không thấy chữa trị tự nhiên hồi phục và bệnh dứt hẳn. (Trích Tuyên nghiệm ký).
11. Triều nhà Đường có Phật tử là Sầm Văn Bổn tự Cảnh Nhơn, là người ở Kinh Dương. Ông phát tâm tín hướng Phật pháp từ khi còn nhỏ. Hàng ngày Ông đều thành kính trì tụng Phẩm Phổ Môn. Có lần Ông đi thuyền đến Ngô Giang, tỉnh Giang Tô, đến giữa dòng thì thuyền bị sóng đánh lật úp. Mọi người trên thuyền đều bị chết chìm, Văn Bổn cũng bị chìm trong nước nhưng ngay lúc ấy bổng nghe có người bảo rằng: “Nhà ngươi thường ngày thành kính trì tụng Phẩm Phổ Môn nên sẽ được qua khỏi nạn tai này”. Ông nghe ba lần như thế thì thấy thân mình như có ai đẩy lên, nổi trên mặt nước và chỉ trong chốc lát thì đã thấy đến bờ. Sau đó, Ông trở về nhà, thiết lập trai đàn cúng dường chư Tăng. Trong số chư Tăng ấy có một vị đi sau cùng bảo với Ông rằng: “Chính lúc thiên hạ rối loạn, riêng Ông nương nhờ thiện duyên phước đức mà được tai qua nạn khỏi, sau này sẽ gặp cảnh thái bình, hưởng phú quý hiển vinh”. Nói mấy lời ấy xong thì vị Tăng ấy không thấy đâu nữa. Sau khi lễ trai tăng xong thì Phật tử Văn Bổn nhìn thấy có hai hạt xá lợi ở trong chiếc bình bát của vị Tăng ấy để lại. Về sau ông làm quan đến chức Trung thư Lệnh cũng vào thời triều nhà Đường. (Trích Phật Tổ thống ký).

12. Triều nhà Đường có Ngài Bất Không Tam Tạng Pháp sư, vốn thuộc dòng Bà La Môn, nước Thiên Trúc. Một lần nọ, Ngài quá giang thuyền đến Nam hải, đi giữa đường thì gặp cuồng phong nổi dậy, sóng nhồi rất lớn. Các 
thương nhân đều kinh sợ nên mỗi người đều theo tín ngưỡng của mình mà xưng niệm vị giáo chủ của họ, nhiều vị còn tác pháp theo các tôn giáo mà họ đang tín ngưỡng, nhưng tất cả đều không hiệu nghiệm. Sóng gió mỗi lúc một dữ dội nên mọi người bèn quay sang Pháp sư lễ bái cầu xin cứu độ. Pháp sư điềm tỉnh an ủi: “Quý vị đừng lo, Tôi hiện nay có một phương pháp có thể giúp quý vị thoát nạn”. Dứt lời, Pháp sư dùng tay mặt cầm bảo xử ngũ cổ bồ đề tâm, tay trái cầm quyển kinh Bát nhã, Ngài tụng Thần chú Đại bi của Đức Quán Thế Âm một biến, tức thì gió lặng sóng yên; nhưng lúc ấy bổng có một con đại kình ngư từ dưới biển nổi lên mặt nước, phun ra những đợt sóng nước cao như núi, đập vào mạn thuyền. Tình hình lúc này còn nguy hiểm gấp vạn lần so với nạn trước, các thương nhân chỉ còn biết phó thác sinh mạng vào Pháp sư nên đồng nhất tâm hướng về Pháp sư xin cứu nạn, Pháp sư cũng thực hành theo cách như trên, Ngài lại bảo thầy Huệ Biện, vị thị giả đi theo Pháp sư tụng Kinh “Ta Yết Long Quảng” thì mọi cơn sóng đều tan biến, tại nạn liền qua khỏi, cả đoàn thuyền nhờ đó đều được bình an vô sự. (Trích Cao Tăng truyện - Tập 3).
.
13. Thời nhà Tống, triều Vua Huy Tôn, vào niên hiệu Sùng Ninh, có quan Hộ Bộ Thị lang Lưu Đại cùng với quan Cấp sự Trung Ngô Thực đồng đi sứ đến nước Cao Ly. Khi trở về bổn quốc, họ phải đi ngang qua các ngọn núi và đảo suốt bốn ngày đêm, lúc ấy nhằm lúc tiết trời âm u, trăng mờ vì mây che phủ, cảnh trời đen tối không phân biệt được hướng Đông Tây nên Lưu Đại vô cùng sợ hãi. Ông bèn hướng về Phổ Đà Bảo Sơn thành kính xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm Đại Sĩ, bổng nhiên thần quang xuất hiện, soi khắp mặt biển rõ bốn phía như lúc ban ngày và cũng thấy rõ Phổ Đà Bảo Sơn. Mọi người nhờ đó được đi đến bờ an toàn vô sự. (Trích Phổ Đà Sơn chí).

14. Triều nhà Tống, thân mẫu của Ngài Từ Hy Tải là Trình Thị, vốn là một Phật tử thành kính Tam bảo, trong nhà lại thờ Đức Quán Thế Âm Bồ Tát rất thành kính. Niên hiệu Thiên Hưng năm thứ 4 nhà Tốn, Hy Tải có duyên sự đi xa dẫn theo hai người con, đến nghỉ trọ tại nhà của Bành Đại Nhậm. Trên đường về thì gặp lúc mưa to gió lớn, sóng cao như núi nên thuyền Ông không thể nào tiến vào bờ được, chòng chành sắp đắm. Hy Tải chẳng biết làm sao nên lập tức kêu gọi những người có mặt trên thuyền đồng thanh xưng niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát. Chỉ trong chốc lát, mọi người bổng nhìn thấy một gốc cây dâu vô cùng to lớn trôi đến trước mặt nên gắng sức kéo gốc cây ấy cặp sát vào thuyền và dùng dây buộc thuyền vào gốc cây dâu ấy, để nương theo gốc cây mà thuyền giữ được thăng bằng trước sức mạnh của gió bão. Đến lúc trời sáng thì tất cả mọi người đều thấy họ đang ở trên bãi cát an toàn, còn gốc cây dâu to đêm qua thì biến đâu mất không thấy nữa. Lúc Hy Tải vừa về đến nhà, mẫu thân của Ông mừng rỡ ra đón. Bà mĩm cười nói rằng: “Đêm qua Mẹ nằm mộng thấy có bà già dắt tay cha con tụi bây về thăm Mẹ, quả nhiên là y như trong mộng”. Khi ấy, Hy Tải nghiệm ra mới biết họ được thoát nạn là nhờ vào thần lực bất tư nghì của Quan Âm Bồ Tát. (Trích Dị Kiên Chí).

15. Triều nhà Minh có một đồng tử họ Tảo, người tỉnh Giang Nam. Đồng tử này phát tâm quy y Tam bảo từ lúc nhỏ và rất nghiêm trì giới luật, từng phát nguyện xả thân cúng dường Phật. Có bao nhiêu tiền của, thường đem bố thí cho người nghèo cùng ,đói khát trong xóm làng. Vào niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh, tháng hai năm Canh Tuất, đồng tử theo Trang Trưởng Lão đến núi Phổ Đà chiêm bái cúng dường Đại Sĩ. Khi đến núi Mai Sầm là nơi khách hành hương đều ghé lại để chiêm bái kim dung của Quán Thế Âm Bồ Tát, đồng tử đối trước pháp tòa của Bồ tát ngự, phát thệ nguyện xả thân cúng dường để báo thâm ân của Phật. Sau đó, khi thuyền ra cửa biển đến Liên Hoa Dương thì bổng nhiên gió to sóng lớn nổi lên đùng đùng, Đồng tử chấp tay, ngước mặt lên không trung, miệng xưng Phật hiệu rồi nhảy xuống giữa muôn ngàn sóng để mãn với thệ nguyện đã phát. Trang Trưởng Lão sau khi trở về nhà, chọn ngày để mời chư Tăng tụng kinh bái Sám, làm lễ siêu độ cho đồng tử. Đến tháng bảy năm đó thì Đồng tử bổng xuất hiện tại chổ ở của Trang Trưởng Lão ai nấy đều kinh ngạc vì không tin là Đồng tử còn sống. Lúc ấy, Đồng tử thuật lại những điều đã xảy ra cho mọi người nghe. Khi vừa nhảy xuống Liên Hoa Dương thì đồng tử bổng thấy ở phía dưới biển, cách mình chừng vài bước chân có một vị Hồ tăng đang chèo một chiếc bè ván đến chổ đồng tử xả thân bảo rằng: “Thầy đến đây để độ con”. Dứt lời, vị Tăng ấy kéo đồng tử lên bè, chiếc bè chèo đi nhanh như ngựa phi, chẳng mấy chốc bè đã đến bãi cát ở vùng Châu Sơn. Vị Tăng ấy dắt đồng tử vào nhà một ngư ông xin nghỉ trọ. Sau đó, vị Tăng ấy bổng nhiên biến mất. Mọi người trong nhà ông lão dò hỏi nguyên nhân thì đồng tử thuật lại việc đã xảy ra. Ai nghe xong cũng đều ngợi khen cho là việc chưa từng có. Lúc ấy mới biết vị Tăng ấy chính là Quan Âm Bồ tát từ bi ứng hiện để cứu đồng tử. Sáng ngày hôm sau, ngư ông dẫn đồng tử đến chùa Trấn Hải ở Châu Sơn. Đồng tử cầu xin thầy trụ trì chùa ấy làm lễ thế phát và dạy cho học tập các Kinh Chú. Khi đồng tử quay trở lại cố hương, Đồng tử có vào trong một ngôi Tịnh thất xin tá túc, nhưng vị Sư trong ấy không bằng lòng nên bèn tìm hỏi nơi ở của Trang Trưởng Lão xin nghỉ trọ. Trang Trưởng Lão sau khi nghe Đồng tử thuật lại mọi việc thì rất cảm động nên mời Đồng tử ở lại gia trang vài ngày ngơi nghĩ rồi dắt về nhà cha mẹ đồng tử. Cha mẹ Đồng tử gặp lại con thì vui mừng khôn xiết, hết lòng cảm tạ Trang Trưởng Lão và thành tâm kính ngưỡng thần lực cứu độ của Quan Thế Âm Bồ Tát. Sự tích Bồ Tát ứng hiện cứu khổ trên đã làm cho mọi người Tăng tục thời ấy đều nhất tâm quy hướng về Quán Âm Đại sĩ rất đông. (Trích Quán Viên bút ký).
16. Triều nhà Đường, Tri Huyền Pháp Sư họ Trần, là người ở Hồng Nhã, xứ Mỵ Châu. Pháp sư thường tuyên thuyết, diễn giải Kinh Luận Đại thừa. Hàng Phật tử cả Tăng lẫn tục đều hoan nghênh ngưỡng mộ hết mình. Tuy vậy, Pháp sư vẫn thường tự giận mình có giọng nói không đúng với thổ âm địa phương nên hiệu quả không như ý nguyện. Sau đó, Pháp sư lên núi Tường Nhĩ, ngày đêm chuyên tụng trì Chú Đại bi. Một hôm, Ngài nằm mộng thấy một vị Thần Tăng đến cắt lưỡi của mình, rồi thay vào chiếc lưỡi khác cho Pháp sư. Đến sáng hôm sau, bỗng nhiên khi vừa cất giọng thì Ngài nhận ra âm thanh của mình đã trở thành thổ âm của người nước Tần. (Trích Cao Tăng truyện - Tập 3).

17. Triều nhà Đường, Sa môn Thích Trí Ích, họ Ngô là người huyện Trường Sa. Lúc trẻ, Thầy từng đi lính chinh phạt bọn rợ hung nô ở chốn biên cương. Sau khi ra khỏi quân ngũ, Thầy trở về quê làm nghề săn bắn và chài lưới. Một hôm, Thầy bắt được con rùa trắng nên đem về nấu ăn. Sau khi ăn xong thì toàn thân bị phát độc; sanh ghẻ lở, đau nhức lở loét từ đầu đến chân, da thịt rã rời, râu tóc đều rụng. Thầy không thể nào chịu đựng nổi sự hành hạ của cơn bệnh, lại không thể nào đi kiếm sống được, đành phải làm thân hành khất lê lết xin ăn khắp đầu đường xó chợ. Một hôm, giữa lúc Thầy đang oằn oại vì đau đớn và đang xin đồng tiền bát gạo của người qua đường thì bổng gặp một vị Tăng nhân đi ngang qua. Nhìn thấy hoàn cảnh thương tâm này nên vị Tăng bèn đến an ủi và bảo rằng: “Ngươi nên hồi tâm trì niệm Chú Đại bi, Ta sẽ dạy cho. Nếu người cố gắng tinh tiến trì tụng thì Ta tin chắc người sẽ được kết quả linh nghiệm.” Thầy vâng lời vị Tăng học thuộc Chú Đại Bi và kể từ hôm ấy, nhất tâm trì tụng. Quả đúng như lời vị Tăng nhân nói, các thứ ghẻ lở loét trên thân Thầy bớt dần, râu tóc từ từ mọc lại, da thịt lần hồi cũng hồi phục sự săn chắc. Khi bệnh lành, Thầy liền phát nguyện xuất gia làm Tăng. Sau đó, Thầy đến gặp Phục Ba Tướng quân xin cho một ngôi nhà cũ. Được Tướng quân ưng thuận, Thầy kiến lập Tịnh xá nơi ấy, làm Trụ trì, trọn đời tu hành rất tinh tấn. (Trích Thái Bình Quảng Ký và Chuyển nhân Lục).

18. Triều nhà Đường, Tịnh Chi Thiền sư, người họ Triệu, xứ Cao Lãng, huyện Ung Châu. Lúc bảy, tám tuổi, Ông đã biết ưa thích quán tưởng Thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà, và theo Kinh văn hướng dẫn tu học. Thầy lập chí xuất gia nên đến niên hiệu Trinh Quán, năm đầu nhà Đường, Thầy đến ẩn tu tại chùa Quang Hóa trên mười năm. Hàng ngày, Thầy thường ngồi thiền trong thảo am, không ở chùa Tăng. Phật tử bốn phương, ngưỡng mộ về hạnh tu của Thầy nên vân tập về tu học trên hai trăm người. Thiền Sư ngày đêm sáu thời, đốc xuất đại chúng tu trì rất tinh tiến, không phụ với chí xuất gia và không lãng phí thời giờ vàng ngọc. Một hôm nọ, mũi của Thiền Sư bổng mọc ra một cục thịt ngăn bít làm Thầy vô cùng khó thở, chạy chữa trăm ngàn phương thuốc đều không hiệu nghiệm. Lúc bấy giờ, có vị Tăng đến bảo Thầy nên phát nguyện trì tụng Bát nhã Tâm kinh vạn biến sẽ khỏi. Thiền sư vâng lời thực hành theo lời dạy thì cục thịt ấy tự nhiên rụng mất. (Trích Cao Tăng Truyện - Tập 2).

19. Triều nhà Đường có Thầy Thích Trí Cần, họ Châu. Từ lúc bé đã có chí hướng làm việc thiện, và thực hiện theo phương ngôn “khắc kỷ - ái quần” tức là bản thân luôn nghiêm khắc với chính mình, nhưng với quần chúng thì lúc nào cũng thương yêu giúp đỡ. Hàng ngày Thầy thường chơi đùa với trẻ con cùng xóm, nói năng nhã nhặn, sắc mặt luôn vui cười. Đến lúc trưởng thành, Thầy xuất gia, tu hành rất tinh tiến; dũng mãnh, lại thường phản tỉnh tự thân và tham cứu Tam tạng giáo điển thật uyên áo. Khi Thầy cầu nguyện điều chi đều được linh ứng. Một lần nọ, thân mẫu của Thầy bị bệnh rất nặng, Thầy phát tâm vì Mẹ ngày đêm kiền thành trì tụng Thánh hiệu Quán Âm Đại Sĩ để cầu cho Mẹ được mau lành bệnh. Do tâm chí thành cảm đến Bồ tát nên trên lá của những cây cối trong khuôn viên nhà chùa đều hiện thật nhiều hóa Phật. Sự việc này cả gia đình Thầy mọi người đều tận mắt nhìn thấy. Bệnh tình của mẫu thân Ngài nhờ sự chí thành trì niệm Thánh hiệu Đại sĩ mà được lành. (Trích Cao Tăng Truyện - Tập 2).

20. Triều nhà Tống có Pháp sư Kế Trung, tự Pháp Thần. Pháp Sư là con của họ Khâu, ở huyện Vĩnh Gia, tỉnh Chiết Giang. Trước kia, cha mẹ của Pháp sư vì hiếm muộn nên đến trước Phật đài, chí thành lễ bái cầu tự. Một hôm, hai ông bà đồng nằm mộng thấy một vị Tăng đem một đứa bé kháu khỉnh, khôi ngô đến trao cho và nói đây là của Loa Khế Tôn giả xin gởi cho hai ông bà nuôi giúp. Lúc tỉnh dậy, Mẫu thân Pháp sư liền thọ thai. Một điều lạ là trước kia bà ưa thích ăn thịt cá, nhưng từ lúc thọ thai thì liền chán ghét, chỉ dùng đồ chay. Pháp Sư từ lúc thơ ấu, mỗi khi thấy tượng Phật, tức thời đều lễ kính. Khi lên tám tuổi, Ngài đến Khai Nguyên xuất gia. Sau đó Ngài đến Nam Hồ, y chỉ theo Ngài Quảng Chí Pháp sư tu học. Do quá sức khắc khổ tu hành, Ngài bị kiệt sức và lâm bệnh, Pháp sư Quảng Chí thực hành Pháp thỉnh Quán Âm Tam muội, cảm ứng đến Đại Sĩ phóng quang cứu bệnh. Thầy được Quảng Chí Pháp sư dùng nước cúng dường đức Quan Âm rưới trên đỉnh đầu, liền đó Pháp sư được khỏi bệnh. Sau đó Thầy trở nên thông minh cực độ, thông suốt giáo quán không bị trở ngại. (Trích Phật Tổ thống ký).
21. Triều nhà Tống, niên hiệu Khánh Hòa, năm thứ 7, có người tên Lý Bác bị bệnh đại ma phong (bệnh cùi) đã hơn ba năm nhưng tất cả y sĩ đều nói không chữa được. Trước kia khi chưa bị bệnh, Lý Bác thường tụng kinh Phổ Môn đến hơn ba tạng (tức hơn 10.500 biến). Một ngày nọ, bỗng nhiên có một vị Tăng đến nhà, trao cho Lý Bác một hoàn thuốc, Lý Bác cung kính đón nhận, nhưng chưa dám dùng. Tối đó, Ông nằm mộng thấy vị Tăng gặp lúc sáng bảo rằng: “Thầy vì thương con tụng kinh rất chí thành nên đã đem hoàn linh đơn đặc biệt đến cứu khổ cho con, tại sao con không chịu uống?” Khi thức dậy, Ông liền lấy hoàn linh đơn ra uống. Thật mầu nhiệm, chỉ trong bảy ngày, da dẻ toàn thân do bệnh cùi bị lột hết đều mọc trở lại, râu tóc mọc lại đen huyền giống như một chàng trai. (Trích Hải Nam Nhứt chước). 

22. Triều nhà Tống, có người tên Trương Hiếu Thuần. Thuần có đứa cháu đã lên năm tuổi nhưng vẫn chưa đi được. Bà con hàng xóm đến mách bảo rằng: “Vừa rồi ở Hoài Diện có một nông phu chân bị bệnh đã lâu năm, chạy chữa nhiều phương thuốc nhưng không hiệu nghiệm. Nông phu ấy tuy thất học nhưng lại là người hết lòng tin tưởng Quan Âm Bồ Tát nên Ông phát nguyện trì niệm Thánh hiệu Đại bi Quán thế Âm Bồ tát ngày đêm không dứt, nhờ đó mà cảm đến Bồ tát. Ngài thị hiện và để lại bài kệ bốn câu như sau:

ÂM: 


Đại Trí phát ư tâm 
Ư Tâm vô sở tầm 
Thành tựu nhất thiết nghĩa 
Vô cố diệc vô cân.
NGHĨA: 


Đại trí phát nơi Tâm 
Nơi Tâm không thể tầm 
Thành tựu mọi ý nghĩa 
Không nghĩ cũng không bàn.
Người nông phu trì tụng bài kệ trên đúng trăm ngày thì chân bị tật liền lành hẳn.

Hiếu Thuần nghe nói vậy, liền bảo đứa cháu và bà Vú phát tâm trai giới thanh tịnh, tụng bài kệ trên thì trải qua ba tháng, đứa bé đi đứng như những đứa trẻ bình thường khác. Không chỉ những người có con cháu bị bệnh về chân như con của Hiếu Thuần mà cả những người tâm trí kém cõi, Thuần đem bài kệ trên bảo họ học và thành tâm trì tụng thì cũng đều có kết quả linh nghiệm. (Trích Quán Âm Từ Lâm).

23. Triều nhà Tống, niên hiệu Thuần Hy, năm thứ 5, có Quan Đô tuần kiểm tên La Sanh tại Nhiêu Châu. Nhân lúc tỵ nạn lụt đến nhà Vương Mẫn Tài mục kích được một việc thật hy hữu. Trong nhà ấy có một tỳ nữ tên là Đại Hỉ, đôi mắt bị mù đã lâu năm lại thường bị đau nhức. Một hôm, Cô nằm mộng thấy có một Lão Tăng đến bảo rằng: “Đại Hỉ, Thầy rất mừng cho con. Con thật có phước duyên nên mới được đến ở trong nhà này, nếu không đến ở đây, con sẽ thành một phế nhân vĩnh viễn. Hôm nay Thầy đem thuốc này đến cứu con.” Nói dứt lời, Lão Tăng liền trao cho Đại Hỉ một chén thuốc, Cô liền bưng lấy uống, thì sau đó bổng thấy đôi mắt mình đã sáng lại trở lại. Cô kính cẩn cúi đầu chào lão Tăng rồi hỏi: “Thưa Đại sư, Ngài từ đâu đến?” Lão Tăng đáp: “Thầy là người ở trong nhà này đã lâu lắm rồi, nghe con đau mắt ngày đêm la khóc, Thầy rất thương xót nên đem thuốc cứu bệnh cho con.” Đại Hỉ giật mình tỉnh giấc thì trời đã sáng, Cô mở mắt ra thì chẳng những mắt sáng lại như xưa mà còn long lanh trong suốt rất đẹp và các chứng đau nhức cũng khỏi hẳn. Mọi người trong nhà thấy vậy đều lấy làm lạ, và bàn tán cho là việc chưa từng có. Họ cùng nhau đến hỏi thăm nên Đại Hỉ đem việc trong mộng thuật lại, Mẫn Tài đem việc ấy thưa với Mẫu thân thì Bà bảo rằng: “Đây là Đấng Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát! Con nên biết nhà của Mẹ thành kính thờ phụng Ngài đã nhiều năm, khi nào có tai nạn cấp bách, nếu lễ bái cầu đảo đều được linh hiển.” (Trích Linh Nghiệm Ký).

24. Tại xứ Đài Châu có vị Tăng tên là Sử-Thao, lúc trung niên Thầy bị bệnh mắt nên thường trì tụng Chú Đại Bi. Một hôm, Thầy nằm mộng thấy Quán Âm Đại Sĩ truyền dạy cho Thầy bài kệ tụng, lại bảo mỗi ngày sớm mai thức dậy múc một chén tịnh thủy, đốt hương lễ bái rồi tụng bảy biến kệ xong, đem nước ấy đi rửa mắt. Thầy Sử Thao vâng lời làm theo sư chỉ bảo; thì bệnh mắt liền sáng lại và lành hẳn. Thầy hưởng thọ 88 tuổi. 

GHI CHÚ: Người ghi lại sự tích này chính bản thân bị bệnh mắt đã hơn một tháng, nhờ Y sư Tôn-Chấn-Nguyên truyền dạy cho bài kệ ấy, Tôi đã thực hành đúng như lời hướng dẫn và quả nhiên cũng được linh nghiệm. Vì thế, Tôi không dám yên lặng và vì muốn lợi ích cho mọi người nên kính cẩn ghi vào sách bài Kệ tụng ấy như sau để cho người có lòng tin nơi đức Quan Âm được nhiều lợi ích:

ÂM: 


Cứu khổ Quán Thế Âm 
Tứ ngã đại an lạc 
Dữ ngã đại phương tiện 
Diệc ngã ngu si ám 
Hiền kiếp chư chướng ngại 
Vô minh chư tội ác 
Xuất ngã ám thất trung 
Sử Ngã thị Phật quang 
Ngã kim thuyết tổng pháp 
Sám nhãn thích tội trọng 
Phổ phóng Tịnh quang minh 
Nguyện đắc vi diệu tướng.
NGHĨA: 


Đại bi Cứu khổ Quán Thế Âm 
Xin ban cho con đại an lạc 
Xin ban cho con đại phương tiện 
Diệt trừ ngu si con hết tội 
Tất cả chướng ngại trong hiền kiếp 
Vô minh cùng với các tội ác 
Ra khỏi trong nhà tối của con 
Khiến con mắt sáng trông thấy Phật 
Con nay trì tụng pháp rửa mắt 
Sám trừ tội ác của nhãn căn 
Phóng Tịnh quang minh khắp soi sáng 
Nguyện được thấy rõ tướng vi diệu.
25. Triều nhà Tống, đời vua Độ Tôn, niên hiệu Hàm Thuần, tháng ba năm Bính dần, có một vị quan Thái Úy bị bệnh mắt. Ông là người tin tưởng Đức Quan Âm Bồ Tát nên sai con đến Động Triều Âm, núi Phổ Đà để cầu khẩn Quán Âm Đại Sĩ, và múc nước suối nơi ấy để đem về rửa mắt. Người con vâng lời, đến nơi múc nước suối đem nước về cho Ông rửa mắt thì bệnh mắt Ông liền lành. Để tỏ lòng thành kính với ân đức cứu độ của Quan Âm Bồ Tát, quan Thái Úy lại bảo con sắm lễ vật đến núi Phổ Đà để cúng tạ. Khi người con đến nơi, thiết lễ trang nghiêm để cúng bái thì Đức Quan Âm hiện thân. Toàn thân Ngài phưởng phất như khói nhạc và tấm áo lụa xanh mờ ảo như thể một tấm màn xanh ngăn cách. Người con sau đó đi tiếp đến động Thiện Tài Đồng tử, thì thấy Thiện Tài Đồng tử bỗng nhiên xuất hiện, tiếp theo thì Đại Sĩ cũng hiện thân. Ngài khoác chiếc áo lụa trắng, có đường viền xanh đỏ, tay Ngài mang chuổi anh lạc, nét mặt Đại Sĩ nhân từ dường như có điều muốn dạy bảo. (Trích Phổ Đà Sơn ký).
26. Triều nhà Tống có Phật tử Vương Nhật Hưu là người có tâm thành Kính với Phật pháp. Một lần nọ, Ông đến Chùa mượn bộ Kinh Di Đà, sao chép lại và có ý muốn hiệu chính để khắc bản phổ biến khắp các nơi. Khi vừa cầm bút sắp chép kinh, bỗng nhiên tay phải bị bệnh phong rút, ngón tay Ông co giật liên hồi, không thể nào viết được. Nhật Hưu liền đưa ngón tay lên, thành kính trì niệm danh hiệu Đức A Di Đà Phật và Quán thế âm Bồ Tát xin được lành bệnh phong để thực hiện tâm nguyện sao chép và khắc bản Kinh A Di Đà. Mầu nhiệm thay, chỉ cầu nguyện có mấy câu, ngón tay của Ông không còn co giật nữa nên viết được trọn bộ kinh A Di Đà, bệnh phong từ đó cũng dứt hẳn, không tái phát nữa. (Trích Long Thơ Tịnh Độ). 

[b]GHI CHÚ[/i]: Sự tích 26 này y cứ theo Bộ Long Thơ Tịnh Độ. Trong Bộ sách ấy, theo lời của Phật tử Quốc học Tiến Sĩ Vương Nhật Hưu tự thuật: “Thời gian gần đây vì có duyên sự, Tôi quá giang thuyền đi. Lúc tới chổ cái Áp (tức là cái trạm được dựng như hình cái cổng có thể đóng mở để chắn nước, khi thuyền bè đến thì người ta mở cổng, cho thuyền đi qua, sau đó cánh cửa sẽ được đóng lại), vì nước sông nơi ấy đang lúc chảy quá mạnh không thể đi được nên chúng tôi neo thuyền lại. Tôi đến chùa Kim Sơn mượn bốn bộ Kinh A Di Đà, vì Tôi có ý muốn hiệu chính bốn bộ này và đóng lại thành một bộ để khắc thành ấn bản và phổ biến rộng rãi. Tuy nhiên nhưng khi mới cầm bút lên, tay phải Tôi bỗng bị phong rút co giật liên tục, không thể viết được. Tôi liền đưa ngón tay ấy lên thành kính xưng niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà và Quan Thế Âm Bồ tát xin được lành bệnh phong để thực hiện tâm nguyện sao chép và khắc bản Kinh A Di Đà. Chỉ cầu nguyện có mấy câu, ngón tay của Tôi tự nhiên hết co giật và bệnh phong trong người cũng dứt hẳn.” Theo như lời Vương Nhật Hưu, chúng ta có thể thấy rõ đức A Di Đà cùng Đại bi Quán Thế Âm luôn ở trước mắt mình nhưng chỉ vì lòng tin của mỗi người chưa đến mức độ kính thành nên không nhận được sự cảm ứng của các Ngài đó thôi. Ở đây, chúng tôi cũng xin giải thích thêm về bốn bộ kinh A Di Đà. Kinh A Di Đà tức là Kinh Đại bổn A Di Đà, vì trong khi dịch, các dịch giả chia thành nhiều đề mục khác nhau nên gọi là bốn bộ, gồm có:


(1) Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh do Ngài Chi Lăng Ca, triều hậu Hán dịch.
(2) Vô Lượng Thọ Kinh do Ngài Khang Tăng Khải, triều Tào Ngụy dịch. 
(3) A Di Đà Kinh, đồng tên với bổn A Di Đà được đọc tụng hàng ngày trong các thời cầu siêu do Ngài Ngô Chi dịch. (4) Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh do Ngài Pháp Hiền, nhà Tống dịch.
27. Triều nhà Tống, niên hiệu Nguyên Phong năm thứ hai, có quan Thị Lang tên Biên Tri Bạch. Ông là vị quan hết lòng vì nước, do phải xông pha nắng gió mà mắc chứng bệnh cảm nắng. Tuy chạy chữa nhiều nơi nhưng bệnh không thuyên giảm. Quan Thị Lang vốn là một Phật tử thuần thành nên phát tâm thành kính chuyên xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm Đại sĩ rất chuyên cần. Một hôm, Ông nằm mộng thấy một người mặc Bạch Y dùng nước rưới từ đầu đến chân Ông. Khi thức dậy, Ông thấy trong người thân thể nhẹ nhàng khỏe khoắn, tinh thần lại rất sảng khoái. Bấy giờ, Phật tử Tri Bạch biết rằng lòng thành kính của Ông đã được cảm ứng với Đức Quan Âm, và Ngài đã cứu Ông khỏi bệnh nên từ đó Ông phát nguyện sưu tập tất cả những sự tích linh nghiệm của Đức Quan Âm có từ xưa đến nay làm thành một bộ sách, đề mục là Quán Âm Cảm Ứng và cho lưu hành phổ biến trong nhân gian. (Trích Phật tổ thống ký).

28. Triều nhà Nguyên ở tại Bình Giang, có vị Tăng Pháp hiệu là Huệ Cang. Từ lâu Thầy mắc phải chứng bệnh phiên vị (bao tử bị lộn ngược) rất nguy hiểm khiến Thầy không thể ăn uống gì được. Một đêm nọ, Thầy nằm mộng thấy có một con mèo chui vào trong bụng mình. Từ ấy bệnh tình càng nặng thêm, lại thêm trong lòng bỗng thấy thèm ăn thịt cá. Giữa lúc tư tưởng loan động như vậy, thì Thầy Huệ Cang chợt phản tỉnh, tự trách mình đã không giữ được chánh niệm Thầy biết ý nghĩ thèm ăn cá thịt là do nghiệp chướng từ nhiều đời khiến bị như vậy nên Thầy liền phát tâm trì niệm Thánh hiệu đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát trăm vạn biến và mỗi ngày trì tụng chú đại bi 108 biến. Chẳng bao lâu, Thầy lại nằm mộng thấy mình đi vào trong núi gặp một vị Tăng nhân tướng mạo trang nghiêm, bảo Thầy rằng: “Ta cho ngươi thứ thuốc này để trị chứng bệnh phiên vị của ngươi.” Ngay lúc ấy bỗng có một đồng tử mặc áo xanh, tay xách một cái lồng, trong ấy có con gà đến trước mặt Thầy. Đồng tử đến trước mặt Thầy Huệ Cang, mở chiếc lồng ra, liền khi đó con mèo từ trong bụng Thầy Huệ Cang nhảy ra khỏi miệng Thầy và vồ lấy con gà đang ở trong lồng. Thầy Huệ Cang giật mình thức dậy thì mới biết đó chỉ là giấc mộng, nhưng thật lạ lùng, chứng bệnh bao tử của Thầy từ đó dứt hẳn. (Trích Báo ứng Lục).

29. Triều nhà Nguyên, thầy Thích Mộng Nhuận tự Ngọc Cương, người ở Gia Hòa. Thầy xuất gia từ lúc 14 tuổi nhưng do sự tu học rất khắc khổ nên Thầy mắc phải chứng suy nhược rất trầm trọng. Thầy phát nguyện tu pháp thỉnh Quán Thế Âm Sám bốn mươi chín ngày. Sau khi sám hối xong thì tật bệnh liền khỏi hẳn. Chẳng những thế, tâm trí của Thầy cũng trở nên sáng suốt và phát triển trí huệ. Thầy lại phát nguyện tu các sám pháp khác như Pháp Hoa, Đại bi v.v... và được linh ứng không thể nghĩ bàn. (Trích Cao Tăng truyện - Tập 4). 

30. Triều nhà Nguyên, Thầy Thích Chân Tịnh, tự Như Am, con của họ Đào ở xứ Hoa Đình, tỉnh Giang Tô. Mẫu thân của Thầy nằm mộng thấy bạch nguyệt (mặt trăng trắng) sa vào lòng mà có thai, sau đó thì sanh ra Thầy. Lúc mới thụ thai thì có một vị Tăng từ trước đến giờ không ai biết, đến nhà và bảo rằng: “Thai nhi trong bụng của Đào Thị chính là Hải Nguyệt Pháp sư tái lai”. Lúc lên chín tuổi thì Thầy đến Chùa xin xuất gia, y chỉ theo Vô Cực Độ Pháp sư tu học, tất cả các Kinh nói về pháp tánh đều học thông suốt. Niên hiệu Thái Định, lúc đang ở chùa Hạ Thiên Trúc, Thầy Chân Tịnh mắc bệnh nặng nên Thầy chuyên tâm trì niệm Thánh hiệu Quan thế Âm. Một đêm, Thầy nằm mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ bưng bình cam lồ đến, dùng nhành dương liễu rưới nước vào miệng mà nói rằng: “Bệnh Ông từ nay sẽ khỏi hẳn.” Khi thức dậy, Thầy cảm thấy trong người nhẹ nhàng, chứng bệnh trước đây đã không còn nữa. (Trích Cao Tăng truyện - Tập 4).
gửi bởi battinh » 21/01/16 20:58 
31. Triều nhà Nguyên có Thiên Nham Thiền Sư, họ Đổng, người ở tỉnh Chiết Giang. Lúc nhỏ, Thiền Sư hay bị bệnh nên mẫu thân của Ngài thường ở trước Quán Âm Đại Sĩ chí thành cầu đảo, lễ bái xưng niệm danh hiệu Đại Sĩ. Bà còn phát nguyện: “Cúi xin Bồ Tát đại từ đại bi gia hộ cho đứa trẻ này được mạnh khỏe, tật bệnh tiêu trừ, sau này con nguyện sẽ cho nó xuất gia tu hành”. Lời nguyện của Bà được cảm ứng, đứa trẻ quả nhiên mọi tật bệnh đều hết, sau đó, cậu bé được thân mẫu cho đi xuất gia theo Linh Chi Luật Sư học tập giới luật Phật pháp, tiếp theo lại được Trung Phong Hòa Thượng truyền tâm ấn. Thiền sư Thiên Nham sau về ẩn tu nơi chùa Thiên Long, hoằng truyền Phật pháp. Đức độ của Thiền Sư được nhiều người ngưỡng mộ. Tương truyền rằng, một ngày nọ, lúc Ngài đang tĩnh tọa thì có hai con rắn thật lớn đến quanh quẩn nơi pháp tòa, Thiền sư vì chúng mà giảng nói Tam quy ngũ giới. Hai con rắn ngóc đầu lên và cúi xuống lễ bái Thiền sư rất lễ kính. Sau khi lễ bái xong thì chúng bò đi nơi khác. (Trích Thính Thị Khể Cổ lược).

32. Triều nhà Minh, tại Ngô Quận có Phật tử tên là Từ Minh Phu. Phật tử này rất thâm tín Tam bảo, nhất là với Quán Âm Đại Sĩ. Ông thường ngày đêm lễ kính, xưng niệm danh hiệu của Đại Sĩ rất chí thành. Ông có đứa con tên Quán mới lên mười tuổi, bỗng nhiên mắc bệnh nguy hiểm. Hai vợ chồng Ông bèn đối trước tượng Đại sĩ, ngày đêm chí thành khẩn thiết cầu đảo, xưng niệm danh hiệu của Quán Âm Bồ Tát. Đến ngày thứ bảy thì xảy ra chuyện vô cùng lạ lùng. Vào đêm ấy, cả hai vợ chồng Ông đều nằm mộng thấy Bồ Tát đến dạy: “Ngươi hãy yên tâm, đừng quá buồn rầu. Con của hai ngươi sáng ngày mai sẽ ngồi dậy được”. Ngay lúc ấy bỗng nhiên trên bàn thờ Phật có tiếng động mạnh, hai vợ chồng giật mình thức giấc, đến trước bàn thờ Đại Sĩ thì thấy lư hương, chân đèn, bình hoa, dĩa trái cây đều bị rơi xuống đất nhưng không đồ vật nào bị hư bể. Ngay lúc ấy cả hai bỗng nghe trong miệng đứa nhỏ có tiếng nói lâm râm: “Xin Bồ Tát cứu con! Xin Bồ Tát cứu con!”. Vợ chồng ông gọi con nhưng nó vẫn ngủ say, không đáp. Đến sáng vợ chồng ông hỏi duyên cớ thì đứa trẻ cho biết: “Tối qua trong lúc đang ngủ thì con thấy Đại Sĩ đến trước giường con và nói “Con trai, Ta đến cứu con đây.” Nói rồi Bồ Tát cho con một chén nước bảo uống. Con vừa uống xong thì liền thấy nhẹ nhàng khắp xương tủy, toàn thân toát mồ hôi, đầu óc nhẹ nhàng tỉnh táo.” Cả hai vợ chồng nghe con kể lại rất vui mừng, lại càng hết lòng tin tưởng vào thần lực của Đức Đại Sĩ, mấy ngày sau thì bệnh của đứa trẻ lành hẳn. (Trích Từ Thị Đình huấn).

33. Triều nhà Minh tại chùa Thiên Đồng có Thầy Thích Tăng Chiếu là người có rất nhiều bệnh. Vào niên hiệu Hồng Vũ, năm Bính Thìn, bệnh tình của Thầy ngày càng trở nên nặng. Vị Thượng Tọa trong chùa thấy vậy, khuyên Thầy nên thành kính trì tụng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ được tiêu trừ tật bệnh. Thầy Tăng Chiếu vâng lời, mỗi ngày trì niệm danh hiệu của Đức Quan Thế Âm đến hàng vạn câu. Qua năm ngày sau, lúc giờ Ngọ, Thầy tự nghĩ: bệnh tình của mình chắc khó lòng qua khỏi, có lẽ không bao lâu sẽ chết, chi bằng ngưng trì niệm Danh hiệu Đức Quan Thế Âm, mà đổi sang trì niệm Danh hiệu Từ phụ A Di Đà Phật để cầu vãng sanh thì chắc có kết quả tốt hơn. Khi Thầy vừa dấy khởi niệm tưởng này lên thì liền thấy có một phụ nữ tuyệt đẹp, thân mặc Pháp y, tay cầm Tịnh bình, từ ngoài cửa đi vào, đến trước mặt Thầy. Lúc ấy, Thầy Tăng Chiếu rất kinh ngạc, chẳng biết làm gì, sau khi Thầy định tâm nhìn kỹ lại, biết đó là Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân. Thầy Tăng Chiếu quá sức cảm động, rơi nước mắt, Thầy liền thành kính quỳ xuống, cầu xin sám hối thật bi thiết, chỉ trong chốc lát thì người phụ nữ ấy biến mất. Trải qua năm ngày sau thì bệnh của Thầy tự nhiên khỏi hẳn. (Trích Sơn Am tạp lục).

34. Triều nhà Minh ở tại Đàm Hưng, Cư sĩ Nguyễn Ứng Kiệt là một Phật tử tại gia. Ông vốn là người rất tin tưởng và luôn thành kính lễ bái trì niệm đức Quán Thế Âm. Vào niên hiệu Vạn Lịch, nhà Thanh, năm Nhâm Dần, ông mắc phải chứng bệnh đàm ứ lên chận cổ, một giọt nước gần như cũng không thể uống được. Trải qua bảy ngày, sức lực Ông hoàn toàn suy kiệt. Vào giờ Tý đêm ấy, Ông mê man, thần thức Ông thấy mình đang khiêng một chiếc kiệu đi dọc theo bờ con sông lớn, bỗng nhiên trượt chân té xuống nước. Ngay lúc ấy các loài thủy tộc có vảy, có mai hiện đến trước mắt và xúm vào đòi mạng. Lúc đó Ông tự nghĩ: chắc là Ta từ nhiều đời đã từng ăn thịt những loài này nên hôm nay mới lâm nạn như vậy. Trong lúc hốt hoảng, đột nhiên Ông cảm thấy dường như có người nắm hai tay mình dắt lên bờ, Ông ngước đầu lên xem thì thấy có một vầng thái dương đỏ thắm lửng lơ trên không trung tựa bên chân núi, Quán Âm Đại Sĩ đang n


Chùa Quan Thế Âm Tổ 15 - Trụ Trì: ĐĐ Thích Giác Nhàn
Tổ 15, Thôn Trung Hiệp, Xã Hiệp An, Huyện Đức Trọng, Tỉnh Lâm Đồng.
Tel. (+84) 0909.747.474 - (+84) 0933.447.312

Email: voluongtho0909747474@gmail.com