PHÁP HỘI NIỆM PHẬT A DI ĐÀ
Tịnh Thất Quan Âm
 

TÂN BIÊN QUÁN ÂM LINH CẢM LỤC Phần 1


PHẦN I 
LỜI MỞ ĐẦU

LƯỢC TRÍCH ĐỀ MỤC CỦA BỘ TÂN BIÊN QUÁN ÂM LINH CẢM LỤC

Tân Biên là bộ sách mới, ghi chép những sự tích của đức Quán Âm cứu khổ ban vui cho chúng sanh. Bộ sách này được nói là mới để phân biệt với những sách xưa cũng ghi chép lại những sự tích của đức Quán Thế Âm cứu khổ ban vui cho chúng sanh. 

Quán Âm là Thánh hiệu của một vị Bồ Tát mà giới Phật tử đều biết và từng nghe danh hiệu của Ngài. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn, Dịch giả xin trích dẫn phần giải thích Phật hiệu này trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn, Đức Bổn Sư Thích Ca đã giải thích nhân khi Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát thưa hỏi: “Kính bạch Thế tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên gì mà được gọi là Quán Thế Âm?” Bổn sư Thích Tôn dạy: “Này Vô Tận Ý Bồ Tát! Nếu có vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sanh bị các khổ não, được nghe danh hiệu của vị Đại Sĩ này, một lòng xưng niệm thì ngay lúc ấy, Quán Thế Âm Bồ tát quán sát âm thinh xưng niệm kia, liền đến cứu giúp cho tất cả đều được giải thoát”, lại có câu “Trong ấy, nếu chỉ có đến một người xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thì những chúng sanh ấy đều được giải thoát khỏi tai nạn quỉ La sát, vì nhân duyên ấy nên được gọi là Quán Thế Âm.” 

Linh cảm là hai chữ rút gọn, nếu nói đủ thì phải gọi là Đại từ, Đại bi Cứu khổ Cứu nạn Quảng Đại Linh cảm, bởi vì Đức Quán Thế Âm Bồ tát chẳng những cứu khổ cứu nạn cho chúng sanh trong lục đạo mà còn cứu nguy cho các hàng Thánh nhân trong Tam thừa, vì thế nên chẳng những chúng sanh trong lục đạo trì niệm danh hiệu của Bồ tát mà chúng sanh trong Tam thừa cũng đều trì niệm. Thế nên, tâm Đại từ Đại bi của Bồ tát phổ biến trong cả chín pháp giới nên được gọi là Đại từ Đại bi Cứu khổ cứu nạn Quảng đại Linh cảm.

Dịch giả lẽ ra không cần thiết phải viết Lời Mở Đầu cho quyển sách này vì đã có phần Đề tựa quý giá của Liên Tôn Thập Tam Tổ. Đó là những lời vàng ngọc quý hóa dạy bảo hàng Phật tử phải thành tâm trì niệm danh hiệu của đức Đại sĩ Quán Thế Âm. Trong khi dịch giả tự xét mình là kẻ hậu học, văn vụng lời quê, lại đi viết lời mở đầu là việc không phù hợp cho lắm. Tuy nhiên, theo thiển ý, Dịch giả nhận thấy Phật pháp quảng đại vô biên, nên dù chúng sanh trên quả đại địa đều thành vô thượng giác, hiện tướng lưỡi rộng dài, dùng sức thần thông, sức trí huệ, trải qua số kiếp như vi trần, tận lực tuyên thuyết sự quảng đại của Phật pháp cũng không thể nói hết được. Vì thế nên dù sở học kém cõi nhưng Dịch giả cũng không ngần ngại dùng sự hiểu biết nông cạn của mình, thành thật phô bày tấm lòng thành với đọc giả về một số quan điểm sau đây: 

Kính thưa quý vị, Bộ sách Đường về Cực lạc do Hòa Thượng Vạn Đức (Thượng Trí - Hạ Tịnh) dịch thì sau khi xuất bản, dịch giả được nghe một số vị gồm cả Phật tử tại gia và người xuất gia phê bình rằng: Truyện vãng sanh là chuyện những người tu hành được vãng sanh, cần chi phải nhọc công phiên dịch khiến cho đọc giả phải chán tai, mỏi mắt và mất thời gian. Có người lại cho rằng nên để thời gian ấy để dịch Kinh sách luận về Giáo lý thì thiết thực hơn là bỏ công dịch truyện Vãng sanh. Thưa quý vị, theo thiển ý của dịch giả thì những lời bình phẩm trên là sai lầm và gây tai hại rất lớn. Tại sao thế? Vì Nho thơ có câu: “Hải trung hậu lãng, thôi tiền lãng; Thế thường tân nhơn, vấn cựu nhơn”, nghĩa là “Sóng biển lớp sau đùa lớp trước, Sự đời tuổi trẻ hỏi người xưa.” Sự tu hành cũng thế, chúng ta là kẻ hậu tiến cần phải hiểu biết công phu tu trì của các bậc tiền nhân để noi theo gương sáng của các Ngài mà thực hành theo. Nếu theo quan niệm ngộ nhận như của các Phật tử nói trên thì thử hỏi chư Tổ Tông Liên Tôn và quí tiên hiền trong Phật pháp, cần chi phải sưu tầm các sự tích vãng sanh trải qua nhiều đời, vừa khổ nhọc, lại phí công vô ích? Hơn nữa, xin quý vị hãy đọc toàn bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục hoặc Đường về Cực Lạc. Trong ấy hàng ngàn sự tích vãng sanh, mỗi sự tích không chỉ ghi lại việc vãng sanh vào giờ phút lâm chung mà còn là bao lời dạy khuyên quý hóa vô ngần để làm kim chỉ nam cho chúng ta tu học hiệu quả. 

Cuối cùng, Dịch giả thành kính xin các bậc Cao minh, Đại đức, Đại sĩ trong giới xuất gia cùng với chư Phật tử tại gia, khi đọc bộ Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục này, nếu thấy có chổ sai lầm, xin từ bi phủ chính và chỉ giáo cho. Dịch giả thành tâm vạn tạ. 


LỜI TỰA CỦA
LIÊN TÔNG THẬP TAM TỔ 
ẤN QUANG PHÁP SƯ

Đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát thệ nguyện sâu rộng không ngần, tâm Từ Bi quảng đại vô biên, thế nên Ngài phân thân khắp vi trần sát độ trong mười phương thế giới, tùy duyên hiện hình, tầm thinh cứu khổ, độ cho tất cả chúng sanh thoát khỏi vòng khổ não. Đặc biệt, với chúng sanh ở cõi Ta bà này, tâm bi mẫn của Ngài càng chí thiết, thế nên chúng sanh nào chí thành xưng niệm đều được Ngài cứu độ không bỏ sót một ai.

Những năm gần đây, tất cả nhân loại thường gặp rất nhiều hoạn nạn, khổ ách, có muốn trốn thoát cũng khó đặng và cũng không có phương gì để tránh cho khỏi. Vì sao vậy? Vì trong thời hiện đại này, thế đạo nhân tâm xấu ác, đảo điên đến cực độ. Đối với cha mẹ là người có đại ân đức, sanh thành dưỡng dục mà còn ngang nhiên đề xướng bác bỏ hiếu đạo, kết bạn bè cùng với những kẻ ác nghịch giết cha hại mẹ. Thế nên, những ai sanh ra trong thời kỳ này, chẳng phải là việc buồn đau, đáng thương xót hay sao? Đại phàm những người có chánh tri chánh kiến, không một ai chẳng lưu tâm nghiên cứu Chánh pháp, không một ai chẳng lo tu trì Tịnh nghiệp để mong thoát ly cõi đời ác ngũ trược này, mau chóng dự vào Liên Trì Hải hội, như thế mới mong được thoát khỏi vô lượng thống khổ nơi cõi Ta bà này và được hưởng thọ sự an vui nơi Lạc quốc.

Nhưng đối với chúng ta, khi chưa được về Lạc quốc và vẫn còn đắm chìm trong cảnh khổ nơi Ta Bà thì cần phải có đấng Mẹ hiền để làm nơi nương tựa. Đấng Mẹ hiền ấy chính là Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, vì Bồ Tát đối với cõi Ta Bà đau khổ, nhất là trong thời kỳ mạt pháp này, Ngài đặc biệt sanh khởi tâm Đại từ vô lượng, vận dụng lòng Đại bi đồng thể. Đối với tất cả thứ khổ nạn, Ngài luôn luôn thùy từ cứu độ. Thế nên, chúng sanh nào xưng niệm hồng danh của Ngài, nếu lúc gặp phải nguy hiểm liền hóa thành kiết tường, gặp phải nạn tai thì biến thành an lạc. Những sự việc linh ứng của Bồ tát không bút mực nào có thể tả xiết. Các tích cảm ứng của Bồ tát thường thấy tản mác trong các sách nhưng những bộ sách chuyên ghi chép sự linh ứng của Ngài thì có thể nói đến như Quán Âm Từ Lâm Tập của Hoàng Tán Đại sư, Quán Âm Trì niệm Ký của Cư sĩ Châu Khắc Phục, Quán Âm Linh Cảm Lục của Cư sĩ Vưu Tích Âm, Quán Âm Bổn Tích Tụng của Cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh, Quán Âm Linh Nghiệm Ký của Cư sĩ Nhiếp Vân Đài. Các bộ sách này đều có lưu hành trong nhân gian để mọi người trong các giới đều được đọc, nghe và truyền tụng.

Trong tất cả các ghi chép được xem là hoàn bị nhất thì chỉ có bộ Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục của Cư sĩ Lý Viên Tịnh vì Cư Sĩ đã tổng thâu tất cả các bộ sách khác mà biên tập thành một bộ sách này. Có thể nói bộ sách này là tập truyện đầy đủ về những khía cạnh ứng nghiệm linh cảm của Đức Quán Âm, đồng thời làm chổ y cứ cho tất cả những người có tín tâm trì niệm danh hiệu Đại Sĩ. Tuy nhiên chúng ta nên biết vì sao Đức Quán Thế Âm Bồ Tát có thể linh cảm được như vậy? Bởi vì Ngài có thể phản văn, văn tự tánh (nghĩa là không nghe theo thinh trần mà trở lại nghe nơi tự tánh) và chiếu kiến ngũ uẩn giai không (tức dùng trí soi chiếu đều thấy thân ngũ uẩn đều là không thật có). Thế nên, Tôi mong những vị nào được xem bộ sách này mà có thể chí thành khẩn thiết niệm hồng danh của Quán Âm Đại Sĩ, niệm đến lúc tất cả vọng niệm tiêu vong, chánh niệm hiện tiền thì tất cả phiền não ác nghiệp hiện có đều tiêu tán và quán được tất cả những cảnh duyên khổ vui đều không thật có. Chính trong trạng thái không thật có này, có thể phát khởi được tâm đại từ, vận dụng tâm đại bi, tùy cơ tiếp dẫn hóa độ, dùng tâm của Đức Quán Âm làm tâm mình, dùng việc làm của Đức Quán Âm làm việc làm của mình, đều muốn cho khắp chúng sanh đang bị thống khổ đồng được gội nhuần ân đức của Bồ tát Quán Thế Âm, từ ngày nay cho đến đời vị lai, đồng nhau thực hành hạnh của đức Quán Thế Âm để triển chuyển cứu độ lẫn nhau, đây là bản hoài của lão Tăng khi đề tựa vậy.

Điều cần ghi nhớ là lúc bình nhật, triệt để không được sát sanh, tốt nhất là trường trai thì càng quý. Những ngày Quán Âm Trai kỳ mà tiến hành phóng sanh thì công đức rất lớn, hơn cả làm việc phóng sanh trong những ngày thường.
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập 
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

Phẩm “Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn”

Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Thế Tôn! Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán-Thế-Âm?”

Phật bảo ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: “Thiện-nam-tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát.

1. Nếu có người trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức oai thần của Bồ-Tát này được như vậy. Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ-Tát này liền được chỗ cạn. Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh, vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa- cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân châu các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kẻ kia trôi tắp nơi nước quỉ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì các người đó đều được thoát khỏi nạn quỉ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm.

2. Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì dao gậy của người cầm liền gãy từng khúc, người ấy liền được thoát khỏị. Nếu quỉ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam-thiên đại-thiên muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán-Thế-Âm Bồ Tát, thì các quỉ dữ đó còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại được. Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thảy đều đứt rã, liền được thoát khỏi. Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam-thiên đại-thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: “Các Thiện-nam-tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, vị Bồ-Tát đó hay đem pháp vô-úy thí cho chúng sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thì sẽ được thoát khỏi oán tặc nầy”. Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: “Nam-Mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát!” vì xưng danh hiệu Bồ-Tát nên liền được thoát khỏi. Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ- Tát sức oai thần to lớn như thế.

3. Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền được ly dục. Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền được lìa lòng giận. Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền được lìa ngu si. Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có những sức oai thần lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sanh thường phải một lòng tưởng nhớ.

Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán-Thế- Âm Bồ-Tát, liền sanh con trai phúc đức trí huệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng gốc phước đức, mọi người đều kính mến. Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức oai thần như thế.

4. Nếu có chúng sanh nào cung kính lễ lạy Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.

Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng-hà- sa Bồ-Tát lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn đó có nhiều chăng?

Vô-Tận-Ý thưa: “Bạch Thế-Tôn! Rất nhiều”.Phật nói: “Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thì phước của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn ức kiếp không thể cùng tận.

Vô-Tận-Ý! Thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát được vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế.”

5. Ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát bạch Phật rằng: “Thế-Tôn! Quán-Thế-Âm Bồ- Tát dạo đi trong cõi Ta-bà như thế nào? Sức phương tiện đó như thế nào?” 

Phật bảo Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: “Thiện-nam-tử! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật được độ thoát, thời Quán-Thế-Âm Bồ-Tát liền hiện thân Phật vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Duyên-giác được độ thoát, liền hiện thân Duyên-giác mà vì đó nói pháp. 

Người đáng dùng thân Thanh-văn được độ thoát, liền hiện thân Thanh-văn mà vì đó nói pháp. 

Người đáng dùng thân Phạm-vương được độ thoát, liền hiện thân Phạm-vương mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Đế-Thích được độ thoát, liền hiện thân Đế-Thích mà vì đó nói pháp. 

Người đáng dùng thân Tự-tại-thiên được độ thoát, liền hiện thân Tự-tại-thiên mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Đại-tự-tại-thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại-tự-tại-thiên mà vì đó nói pháp. 

Người đáng dùng thân Thiên-đại-tướng-quân được độ thoát, liền hiện thân Thiên-đại-tướng-quân mà vì đó nói pháp. 
Người đáng dùng thân Tỳ-sa-môn được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-sa-môn mà vì đó nói pháp. 

Người đáng dùng thân Tiểu-vương được độ thoát, liền hiện thân Tiểu-vương mà vì đó nói pháp. 

Người đáng dùng thân Trưởng-giả được độ thoát, liền hiện thân Trưởng-giả mà vì đó nói pháp. 

Người đáng dùng thân Cư-sĩ được độ thoát, liền hiện thân Cư-sĩ mà vì đó nói pháp. 

Người đáng dùng thân Tể-Quan được độ thoát, liền hiện thân Tể-Quan mà vì đó nói pháp. 

Người đáng dùng thân Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân Bà-la-môn mà vì đó nói pháp. 

Người đáng dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà vì đó nói pháp. 

Người đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng-giả, Cư-Sĩ, Tể-Quan, Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp. 

Người đáng dùng thân đồng-nam,đồng-nữ được độ thoát, liền hiện thân đồng-nam, đồng-nữ mà vì đó nói pháp. 

Người đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn cùng phi nhơn được độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Chấp-Kim-Cang thần được độ thoát, liền hiện thân Chấp-Kim-Cang thần mà vì đó nói pháp.

Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.

Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban cho sự vô-úy, nên cõi Ta-bà này đều gọi Ngài là vị”Thí-vô-úy”.

6. Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Con nay muốn cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát”. Liền cởi chuỗi ngọc bằng châu báu nơi cổ giá trị trăm nghìn lạng vàng, đem trao cho ngài Quán-Thế-Âm mà nói rằng: “Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này”.

Khi ấy Quán-Thế-Âm Bồ-tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô-Tận-Ý lại thưa cùng Quán-Thế-Âm Bồ-Tát rằng: “Xin Ngài hãy vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này”.

Bấy giờ Phật bảo Quán-Thế-Âm Bồ-Tát: “Ông nên thương Vô-Tận-Ý Bồ- Tát và hàng tứ chúng cùng trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn và phi-nhơn v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó.

Tức thời, Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thương hàng tứ chúng và trời, rồng, nhơn, phi-nhơn,v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: Một phần dâng đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, một phần dâng tháp của Phật Đa-Bảo. Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta Bà”.

Lúc đó, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát nói kệ hỏi Phật rằng: 


7. Thế-Tôn đủ tướng tốt! 
Con nay lại hỏi kia. 
Phật tử nhân duyên gì? 
Tên là Quán-Thế-Âm? 

Đấng đầy đủ tướng tốt.
Kệ đáp Vô-Tận-Ý: 
Ông nghe hạnh Quán-Âm. 
Khéo ứng các nơi chỗ. 

Thệ rộng sâu như biển.
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn. 
Hầu nhiều nghìn Đức Phật. 
Phát nguyện thanh tịnh lớn.

Ta vì ông lược nói. 
Nghe tên cùng thấy thân 
Tâm niệm chẳng luống qua. 
Hay diệt khổ các cõi.

Giả sử sanh lòng hại. 
Xô rớt hầm lửa lớn. 
Do sức niệm Quán-Âm. 
Hầm lửa biến thành ao.

Hoặc trôi dạt biển lớn. 
Các nạn quỉ, cá, rồng. 
Do sức niệm Quán-Âm. 
Sóng mòi chẳng chìm được.

Hoặc ở chót Tu-di. 
Bị người xô rớt xuống. 
Do sức niệm Quán-Âm. 
Như mặt nhật treo không.

Hoặc bị người dữ rượt. 
Rớt xuống núi Kim-Cang. 
Do sức niệm Quán-Âm. 
Chẳng tổn đến mảy lông.

Hoặc gặp oán tặc vây. 
Đều cầm dao làm hại. 
Do sức niệm Quán-Âm. 
Đều liền sanh lòng lành.

Hoặc bị khổ nạn vua. 
Khi hành hình sắp chết. 
Do sức niệm Quán-Âm. 
Dao liền gãy từng đoạn.

Hoặc tù cấm xiềng xích. 
Tay chân bị gông cùm. 
Do sức niệm Quán-Âm. 
Tháo rã được giải thoát.

Nguyền rủa các thuốc độc. 
Muốn hại đến thân đó. 
Do sức niệm Quán-Âm. 
Trở hại nơi bổn-nhân.

Hoặc gặp La-sát dữ.
Rồng độc các loài quỉ. 
Do sức niệm Quán-Âm. 
Liền đều không dám hại.

Hoặc thú dữ vây quanh. 
Nanh vuốt nhọn đáng sợ. 
Do sức niệm Quán-Âm. 
Vội vàng bỏ chạy thẳng.

Rắn độc cùng bò cạp. 
Hơi độc khói lửa đốt. 
Do sức niệm Quán-Âm. 
Theo tiếng tự bỏ đi.

Mây sấm nổ sét đánh. 
Tuôn giá, xối mưa lớn. 
Do sức niệm Quán-Âm. 
Liền được tiêu tan cả.

Chúng sanh bị khổ ách. 
Vô lượng khổ bức thân. 
Quán-Âm sức trí diệu. 
Hay cứu khổ thế gian.

Đầy đủ sức thần thông. 
Rộng tu trí phương tiện. 
Các cõi nước mười phương. 
Không cõi nào chẳng hiện.

Các loài trong đường dữ: 
Địa-ngục, quỉ, súc sanh. 
Sanh, già, bịnh, chết khổ. 
Lần đều khiến dứt hết.

Chơn-quán thanh tịnh quán. 
Trí-huệ quán rộng lớn. 
Bi-quán và từ-quán, 
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.

Sáng thanh tịnh không nhơ. 
Tuệ nhật phá các tối 
Hay phục tai khói lửa. 
Khắp soi sáng thế gian.

Lòng bi răn như sấm. 
Ý từ diệu dường mây 
Xối mưa pháp cam lồ. 
Dứt trừ lửa phiền não.

Cãi kiện qua chỗ quan. 
Trong quân trận sợ sệt 
Do sức niệm Quán-Âm. 
Cừu oán đều lui tan.

Diệu-Âm, Quán-Thế-Âm. 
Phạm-âm, Hải-triều-âm 
Tiếng hơn thế gian kia, 
Cho nên thường phải niệm.

Niệm niệm chớ sanh nghi 
Quán Âm bậc Tịnh Thánh. 
Nơi khổ não nạn chết. 
Hay vì làm nương cậy.

Đủ tất cả công đức. 
Mắt lành trông chúng sanh. 
Biển phước lớn không lường. 
Cho nên phải đảnh lễ.
8. Bấy giờ, ngài Trì-Địa Bồ-Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán-Thế-Âm Bồ- Tát Đạo-nghiệp Tự-Tại, Phổ-Môn Thị-Hiện sức thần thông nầy, thì phải biết công đức người đó chẳng ít”.

Lúc Phật nói phẩm Phổ-Môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều phát tâm vô-đẳng-đẳng, vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.
QUÁN ÂM KỆ
Trước Khi Xưng Niệm Thánh Hiệu Đức Đại Bi Quán Thế Âm
Trước Tiên Nên Đọc Bài Kệ Sau:

DỊCH ÂM: 


Quán Âm Bồ Tát diệu nan thù 
Thanh Tịnh trang nghiêm lũy kiếp tu 
Hạo hạo hồng liên an túc hạ 
Nguy nguy cổ Phật hiện Quan đầu 
Bình trung cam lộ thường biến sái 
Thủ nội dương chi bất kể thu 
Thiên xứ kỳ cầu thiên xứ ứng 
Khổ hải thường tác độ nhân chu.
DỊCH NGHĨA: 


Sắc đẹp Quán Âm khó tỏ trần 
Tu hành muôn kiếp tịnh nghiêm thân 
Sen hồng rực rỡ chân an ngự 
Cổ Phật uy nghiêm mão sáng ngần 
Cam lộ miên trường ban khắp chúng 
Liễu dương ngàn thuở cứu lê dân 
Ngàn nơi khẩn nguyện, ngàn nơi ứng 
Bể khổ đưa thuyền độ thiện nhân 
(Phật tử Liên Hoa tạm dịch)
Nam Mô Phổ Đà Sơn Lưu Ly Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát! (1 lần) 
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát! (Xưng niệm từ một trăm, một ngàn đến vạn câu)

• Lược giải bài kệ: 

- Câu 1, câu 2: nguyên nhân có được hảo tướng của Đức Quan Âm. Thân tướng của Bồ tát đẹp đẽ, phi thường do Ngài trải qua vô lượng vô biên số kiếp, tu hành thanh tịnh trang nghiêm mà chiêu cảm được báo thân như vậy. 

- Câu 3, câu 4: Mô tả các tướng đẹp của Bồ tát: dưới chân Ngài có hoa sen hồng lớn nâng đỡ, trên chiếc mão Ngài đội có hình đức cổ Phật đoan nghiêm hiện ra. 

- Câu 5, câu 6: Lòng Đại từ bi của Bồ tát đối với tất cả chúng sanh, nước cam lồ trong bình Tịnh thủy của Ngài lúc nào cũng rưới mát tâm nhiệt não của thế gian và nhành dương liễu trên tay Ngài không ngừng dập tắt mọi nạn tai cho chúng sanh. 

- Câu 7, câu 8: Sự linh ứng khắp nơi của Bồ tát, bất luận ở nơi nào, thời gian nào, nếu có chúng sanh nào chí thành cầu khẩn, Bồ tát đều ứng hiện để cứu khổ ban vui và Ngài luôn chèo thuyền từ để cứu vớt những chúng sanh đang bị chìm đắm trong biển trần khổ não.
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Prajnaparamitahridaya Sutra) là một trong các kinh căn bản và phổ thông của Phật Giáo Đại Thừa. Bài kinh nầy là một trong các bài kinh của bộ Bát Nhã kết tập tại Ấn Độ qua bảy thế kỷ, từ năm 100 T.C.N. đến 600 C.N. Khi được truyền sang Trung Hoa, Tâm Kinh đã được nhiều vị cao tăng chuyển dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán: Trong các bản dịch nầy, bản dịch của ngài Huyền Trang là phổ thông nhất.

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách. 
Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị. Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức. Vô nhãn, nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.Vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố.

Bồ đề tát đõa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:


Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
BẢN DỊCH 

Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn. Nầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế. Nầy Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới. Không có vô minh, mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc.

Khi vị Bồ Tát nương tựa vào trí tuệ Bát Nhã nầy thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn. Các vị Phật ba đời vì nương theo trí tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác. Cho nên phải biết rằng Bát nhã Ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối. Cho nên khi nói đến Bát nhã Ba la mật đa, tức là phải nói câu chú: 


Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. (Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó!)

ĐẠI BI NGUYỆN

TRƯỚC KHI TỤNG CHÚ ĐẠI BI THÌ TRƯỚC TIÊN 
CẦN PHẢI KIỀN THÀNH CUNG KÍNH PHÁT 
NHỮNG ĐẠI NGUYỆN SAU ĐÂY:

DỊCH ÂM

Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện ngã tốc tri nhứt thiết pháp
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện ngã tảo đắc trí huệ nhãn
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện ngã tốc độ nhất thiết chúng
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện ngã tảo đắc thiện phương tiện
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện ngã tốc thừa bát nhã thuyền
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện ngã tảo đắc việt khổ hải
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện ngã tốc đắc giới định đạo
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện ngã tảo đăng niết bàn sơn
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện ngã tốc hội vô vi xá
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện ngã tảo đồng pháp tánh thân.

Ngã nhược hướng đao sơn, đao sơn tự tồi chiếc 
Ngã nhược hướng địa ngục, địa ngục tự tiêu diệt 
Ngã nhược hướng hỏa thang, hỏa thang tự khô kiệt 
Ngã nhược hướng ngạ quỷ, ngạ quỷ tự bảo mãn 
Ngã nhược hướng Tu la, ác tâm tự điều phục 
Ngã nhược hướng súc sanh, tức đắc đại trí huệ.
DỊCH NGHĨA


Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện con mau biết tất cả Pháp
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện con sớm được mắt trí huệ
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện con mau độ cả chúng sanh
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện con sớm được phương tiện khéo
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện con mau lên thuyền Bát nhã
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện con sớm được qua biển khổ
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện con mau được đạo giới định
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện con sớm lên non Niết bàn
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện con mau về nhà vô vi
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.

Nếu con hướng về nơi non đao, non đao tức thời liền sụp đổ. 
Nếu con hướng về địa ngục, địa ngục liền tự mau tiêu tan.
Nếu con hướng về lửa nước sôi, nước sôi lửa cháy tự khô tắt. 
Nếu con hướng về ngạ quỷ, ngạ quỷ liền được tự no đủ. 
Nếu con hướng về chúng Tu la, Tu la tâm ác tự điều phục. 
Nếu con hướng về các súc sanh, súc sanh tự được trí huệ lớn.

CHÚ ĐẠI BI
THIÊN THỦ THIÊN NHÃN VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐÀ LA NI

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ Đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da. Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị, ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đa (Na ma bà tát đa). Na ma bà dà. Ma phạt đạt đậu đát điệt tha. Án. A bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Cu lô cu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A Ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Ta bà ha. Tất đà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ. Ta bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì. Ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da. Ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ. Ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ. Ta bà ha. Ba đà ma kiết tất đà


Chùa Quan Thế Âm Tổ 15 - Trụ Trì: ĐĐ Thích Giác Nhàn
Tổ 15, Thôn Trung Hiệp, Xã Hiệp An, Huyện Đức Trọng, Tỉnh Lâm Đồng.
Tel. (+84) 0909.747.474 - (+84) 0933.447.312

Email: voluongtho0909747474@gmail.com