Bài Luận 8 - Văn hồi kiếp vận
hộ quốc cứu dân chánh bản thanh nguyên luận
(Luận
về “gốc chánh nguồn
trong” của việc văn hồi kiếp vận bảo
vệ đất nước cứu dân)
Đạo đức, nhân
nghĩa chính là tánh đức sẵn có của chúng ta. Nhân quả, báo ứng
quả thật là phương tiện quyền biến
lớn lao để sanh thành
dưỡng dục của thiên địa. Con người
sống giữa trời đất; cái thân bảy
thước nhỏ nhoi lại đứng cùng trời
đất rộng lớn, cao dày không lường thành ba
yếu tố, gọi chung là Tam Tài. Ai lănh hội được đức của
trời đất sẽ đều là Nghiêu, Thuấn,
đều có thể thành Phật, góp phần giúp đỡ
sự sanh thành dưỡng dục vậy. V́ thế,
đối với hai tượng Càn - Khôn trong kinh Dịch,
thánh nhân lấy pháp “tự
cường không ngơi” của Trời, lấy “đức dày chở vật”
của Đất để giáo hóa con người.
“Tự
cường không ngơi” th́ ngăn ḷng tà, giữ ḷng thành, khắc
kỷ, giữ lễ, không đạt đến mức “làm sáng tỏ Minh Đức,
trụ nơi chí thiện, trừ hết sạch ḷng ham
muốn của con người, thiên lư lưu hành”
để khôi phục lại tánh đức sẵn có th́
không đành ḷng! “Đức dày
chở vật” th́ yêu dân, thương vật, khiến
cho chính ḿnh lẫn người đều ôm ḷng chuyên chú
trung hậu, khoan thứ, hành từ bi, coi như ruột
thịt, coi loài vật và ta giống hệt như nhau, không
tận hết thiên chức góp phần tán trợ sự sanh
thành dưỡng dục th́ chẳng thôi!
Những
lời này chẳng phải chỉ để nói về
hạng người có địa vị, nắm quyền
cai trị, mà ngay cả thất phu, thất phụ cũng
đều có thể hành được; bởi lẽ,
đạo của Nghiêu - Thuấn chỉ là hiếu -
đễ mà thôi! Cái học của thánh hiền chỉ là tu
thân mà thôi! Tu được thân, ắt sẽ tu hiếu
đễ, ắt trừ sạch vật dục, mở
rộng lương tri để cho riêng thân ḿnh
được thiện, nhưng sẽ có hiệu quả
[giống như Văn Vương] nêu gương cho
vợ, gương ấy lan đến anh em, rồi
phổ biến khắp đất nước! Huống chi
người có địa vị nắm quyền cai trị, há lẽ nào chẳng khiến cho
thiên hạ đều cùng được tốt lành ư?
Thiên hạ loạn lạc, thất phu có trách nhiệm!
Nếu ai nấy đều dốc tận ḷng thành, ai
nấy tận sức hiếu - đễ, ai nấy làm
điều từ thiện, thương cô nhi, giúp
đỡ kẻ góa bụa, cứu nạn, thương
nghèo, kiêng giết, phóng sanh, ăn chay, niệm Phật, th́
do con người dùng điều lành để cảm,
trời sẽ ứng phước xuống, tự nhiên
mưa thuận, gió ḥa, dân yên, vật thịnh vượng,
quyết chẳng đến nỗi trời thường
giáng những tai nạn như: lụt lội, hạn hán,
ôn hoàng[1],
gió băo, động đất v.v…mà thời thế: sẽ
yên ổn, được mùa, dân an cư lạc nghiệp. Lại c̣n từ ḥa, nhân nhượng, tập quen
thành phong tục. Dẫu có một hai kẻ ngu độn ương bướng,
cũng sẽ hóa thành lương thiện. Như
cảm hóa được chàng quân tử trên kèo nhà[2]
th́ một phương sẽ vĩnh viễn tuyệt
sạch nạn trộm cắp; điều phục
được đứa ḍm lén trong nhà kín th́ từ
đấy về sau nó sẽ thành người lành.
Cổ
nhân dùng nhân từ để cai trị,
chân thành yêu dân, c̣n cảm hóa được dị loại,
như những chứng cớ tốt lành: hổ không vào
cơi ấy, cá dữ bỏ sang nơi khác v.v…. chép trong các
sử sách, nào phải chỉ một chuyện! Nếu ai
nấy đều có thể dùng từ thiện tương
cảm, quyết chẳng đến nỗi thường
có những cái họa: thổ phỉ, đao binh, giày xéo,
cướp đoạt v.v… Nhưng bẩm tánh con
người có vàn muôn thứ chẳng giống nhau. Người
căn tánh thiên bẩm sâu dày, ắt tự có thể tận
lực tuân thủ đạo nghĩa để tận
hết trách nhiệm con người. Những
người có tập khí sâu dày từ kiếp trước,
nên tánh đức bị ngăn lấp, đến nỗi
những ǵ tâm họ nghĩ, những ǵ tâm họ nói,
những ǵ thân họ làm, mỗi mỗi đều trái
nghịch đạo nghĩa. Nhưng do nghe
đến lẽ phước thiện họa dâm và trông
thấy sự thiện ác báo ứng th́ chưa ai chẳng
kinh hoàng, run sợ, bèn tự tu tỉnh, mong
sao được phước khỏi họa!
Do
vậy, biết rằng trời đất dùng
phước thiện dâm họa làm phương tiện
lớn lao, để thâu tóm con
người đều tuân thủ đạo đức
nhân nghĩa. Thánh nhân vốn dùng cái tâm của
trời đất để giáo hóa. V́ vậy,
những câu “thuận theo
đạo lư dẫn đến điều lành, trái
nghịch lại sẽ đưa đến hung hiểm,
ngũ phước, lục cực, làm lành th́ trăm
điều tốt lành giáng xuống, làm ác th́ trăm sự
tai ương giáng xuống, nhà tích thiện ắt
điều vui có thừa, nhà tích điều bất
thiện ắt tai ương có thừa” thường
thấy đầy trong các kinh. Do vậy, cảm phát
thiện tâm của con người, nghiêm cấm, răn
đe chí ư phóng dật của con người hết
sức thâm thiết.
Nhưng
cát - hung, họa - phước do nhân quả báo ứng chính
là chứng nghiệm sự chân thật hay giả dối
của việc y thuận hay trái nghịch đạo
đức, nhân nghĩa. Đă biết là
chứng nghiệm thật sự th́ muốn làm lành ắt
sẽ càng thêm mạnh mẽ, hăng hái cho đến khi
thành tựu; muốn làm chuyện chẳng lành sẽ sanh
ḷng sợ hăi, có khi không dám làm. Như vậy,
đề xướng nhân quả báo ứng chính là vâng theo tâm thiên địa, thánh nhân để
thành toàn tánh đức “đạo
đức, nhân nghĩa” cho người đời. Nếu coi nhân quả báo ứng là chuyện mông
lung không bằng cớ, th́ chẳng những trái nghịch
tâm thiên địa thánh nhân, mà thần thức của chính
ḿnh c̣n vĩnh viễn bị đọa trong
đường ác. Lại c̣n khiến cho bậc
thượng trí không thể dũng mănh quyết chí ưu
thời mẫn thế để tu đức của ḿnh,
kẻ hạ ngu không e dè ǵ, dám làm chuyện ác, đến
nỗi quyền nuôi dạy của thiên địa, thánh
nhân, bị ngăn trở không tỏ lộ
được; cái lư vốn sẵn có trong tâm của chúng
ta sẽ bị ẩn, không sao hiển lộ
được! Cái họa ấy kể khôn kể xiết!
Nhưng thánh nhân thế gian lời lẽ giản
lược, lại chỉ nói chuyện đời này và con
cháu; c̣n như chuyện trước khi sanh và chuyện sau
khi chết, cũng như nhân duyên tội phước
từ vô thỉ đến nay, luân hồi sáu nẻo,
đều chưa thể làm cho sáng tỏ được!
Bởi vậy, kẻ thấy biết nông cạn dù hằng
ngày đọc những lời dạy về nhân quả báo
ứng của thánh nhân, vẫn không tin vào nhân quả báo
ứng!
Đại
giáo của Như Lai hiển thị sự mầu nhiệm
của tâm tánh chúng ta, cũng như sự tinh vi của lẽ nhân quả ba đời. Phàm
là đạo cách vật trí tri, thành ư chánh tâm, tu thân, tề
gia, trị quốc, b́nh thiên hạ và pháp đoạn
Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, không ǵ
chẳng nêu đầy đủ. Do vậy, gặp cha nói
về từ, gặp con nói đến hiếu, anh
nhường, em kính, chồng xướng, vợ theo,
chủ nhân từ, tôi tớ trung thành, ai nấy trọn
hết bổn phận, như vậy là trọn chẳng
khác với những ǵ thánh nhân thế gian đă dạy;
nhưng với mỗi một điều lại chỉ rơ
nhân trước quả sau là những điều thánh nhân
thế gian chưa hề đề cập tới.
Những
lời dạy về tận phận, tận nghĩa,
chỉ có thể dạy được bậc thượng
trí, chứ chẳng thể chế phục kẻ hạ ngu. Nếu biết nhân quả báo ứng th́
thiện - ác, họa - phước rơ ràng như xem ngọn
lửa, ai lại chẳng muốn xuôi theo
điều tốt lành, tránh né điều hung hiểm, tránh
nạn được phước ư? Vả
nữa, chẳng biết nhân quả sẽ đa phần phô
bày tướng thiện bề ngoài, chứ thật ra
ngầm ôm ḷng ác để làm chuyện ác. Cứ
nghĩ rằng người ta đă không biết, nào có
trở ngại ǵ! Chẳng biết cái tâm chúng ta
tương tức tương thông[3]
với tâm thiên địa, quỷ thần, và chư
Phật, Bồ Tát. Hễ mỗi khi chúng ta khởi lên
một niệm, các vị ấy không điều ǵ không
biết! V́ thế, nói: “Những
lời nói riêng tư trong nhân gian, chư thiên nghe như
tiếng sấm. Tâm tồi tệ trong nhà kín,
trong mắt thần giống như ánh chớp”. Ông
Châu An Sĩ nói: “Ai nấy đều biết nhân quả, ấy chính
là đạo để thiên hạ đại thái b́nh
vậy! Người người không biết
nhân quả, chính là đạo gây đại loạn
vậy!” Quả là ân Phật
thấm đẫm con người; chỉ v́ con
người không suy nghĩ sâu xa nên chẳng hề biết
đến vậy!
Đời
thượng cổ, tánh t́nh con người thuần phác,
hơn hẳn những đời sau tệ bạc biết
bao lần! Ân trạch của Văn
Vương thấm nhuần đến cả xương
khô suốt mấy trăm năm; nhưng cái phong tục
giết người tuẫn táng đầy khắp thiên
hạ. Chư hầu thời Liệt Quốc229
chết đi, giết theo những
sủng thần, thiếp yêu cả mấy chục, mấy
trăm người. Chẳng những không sanh ḷng
thương xót, lại c̣n ngược ngạo cho đó là
vinh, ai nấy đua nhau học theo. Ngay
như Tần Mục Công là vua hiền, c̣n giết một
trăm bảy mươi bảy người để
tuẫn táng theo. Ba người con
của Tử Xa là bầy tôi trung lương của
đất nước, mà cũng chẳng v́ nước và
dân mà được tính miễn trừ! Huống chi
những bạo quân vô đạo khác! Vua cả một
nước đă như thế th́ đại phu và các quan
ai nấy cũng tùy sức làm theo. Dù
Khổng, Mạnh, Lăo, Trang cùng xuất hiện cũng không
thể ngăn dứt được!
Đến
khi Phật giáo truyền sang Đông, xiển minh nhân quả
báo ứng, dạy người kiêng giết, phóng sanh,
bỏ ăn mặn mà ăn chay th́ trùng, kiến, rận
rệp c̣n được thương tiếc, che chở,
không đành sát hại, huống chi con người! Do
hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh,
đều biết tham sống sợ chết, đều
là cha mẹ quyến thuộc trong quá khứ, đều là
vị lai chư Phật Thế Tôn. V́ thế phải thương xót, che chở, nào
dám giết hại bừa băi để thỏa bụng
miệng. Gió Từ vừa thổi, thắng hung tàn,
trừ sát hại. Đừng nói chi hàng chư
hầu, đại phu, quan chức, chẳng dám giết
người tuẫn táng, ngay cả kẻ hướng
mặt về phía Nam xưng Trẫm230 cũng
chẳng dám hành ác pháp này. Dẫu có một hai kẻ bạo
ngược làm như thế, cũng trọn chẳng dám
cho giết nhiều người là vinh! Nếu
không có thuyết sanh tử luân hồi, nhân quả báo
ứng của Phật pháp th́ người đời sau
hết tuổi thọ rồi mới chết cũng là
chuyện hiếm hoi lắm.
Đấy
mới là pháp thiển cận mà hiệu quả c̣n
được như thế, huống ǵ những lư
luận về tâm tánh cực sâu xa và đạo đoạn
Hoặc chứng
229.
Liệt
Quốc: Tức thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc
của Trung Hoa kể từ sau khi Châu B́nh Vương
(Cơ Nghi Cữu) nghe lời ông ngoại là Thân Hầu,
mượn sức Hung Nô diệt phe đảng Bao Tự, lên
ngôi, kinh đô bị giặc Hung Nô tàn phá, phải dời
đô sang Đông, Sử gọi Đông Châu, cho đến
khi Tần Thủy Hoàng diệt sáu nước, thống
nhất Trung Hoa. Trong thời này, vua Châu chỉ c̣n hư
vị, chư hầu đánh phá lẫn
nhau, xưng bá. Thời kỳ này kéo dài từ năm 770
trước Công Nguyên cho đến 221 trước Công
Nguyên, và được chia làm hai giai đoạn: Xuân Thu
(770 tr.CN - 476 tr.CN) và Chiến Quốc (475 tr. CN – 221 tr.CN).
Thời Xuân Thu có 12 nước chư
hầu lớn, nhiều nước nhỏ (phụ dung);
thời Chiến Quốc chỉ c̣n sáu nước. Tần
Mục Công, làm vua Tần từ năm 659 tr. CN đến
năm 620 tr. CN, là người có công đưa nước
Tần lên địa vị bá chủ chư hầu.
230.
Hoàng
đế ngồi ở phía Bắc ngoảnh mặt về
phía Nam. Trẫm vốn là một đại từ nhân
xưng thông dụng thời cổ, có nghĩa là ta, hay tôi.
Về sau, Tần Thủy Hoàng hạ lệnh cấm dân
chúng dùng chữ này, chỉ ḿnh hoàng đế
được quyền xưng là Trẫm.
Chân ư? Như Lai tùy
thuận chúng sanh, từ từ khuyến dụ khéo léo.
Thoạt tiên, dùng Nhân Thiên Thừa Ngũ Giới Thập
Thiện để tiếp dẫn những căn cơ kém
cỏi, dùng đó làm phương tiện ban đầu
để siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử.
Nếu căn cơ hơi sâu hơn, bèn giảng Tứ
Đế, Thập Nhị Nhân Duyên khiến cho đoạn
Kiến Tư Hoặc, chứng Thanh Văn, Duyên Giác là
những quả Nhị Thừa. Nếu là căn tánh Đại
Thừa bèn dạy phát Đại Bồ Đề tâm, tu
khắp Lục Độ vạn hạnh, thượng
cầu hạ hóa chúng sanh, khởi ḷng Vô Duyên Từ,
khởi Đồng Thể Bi, chẳng trụ vào Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp để hành Bố Thí và
Lục Độ vạn hạnh, độ thoát hết
thảy chúng sanh, khiến cho họ nhập Vô Dư
Niết Bàn, nhưng chẳng thấy ta là người hóa
độ và người khác cùng chúng sanh là kẻ
được độ, và tướng thọ giả
của Vô Dư Niết Bàn để chứng. Do chẳng
chấp vào bốn tướng nên tam luân thể không. V́
vậy, Trần Sa vô minh nhân đó bèn tiêu
diệt. Tùy theo công hạnh, lần lượt chứng các
quả Bồ Tát: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, và
hiển lộ toàn thể tự tánh, triệt ngộ duy
tâm, phước huệ viên măn, Phật Quả trí
đoạn rốt ráo.
Lại do
căn cơ chúng sanh đời mạt kém hèn, nếu không
cậy vào thệ nguyện lực lớn lao
của Như Lai, quyết sẽ khó thể thoát khỏi
sanh tử ngay trong đời này. V́ vậy, do
ḷng đại từ bi, Phật đặc biệt mở
ra pháp môn Tịnh Độ cậy Phật từ lực,
liễu sanh thoát tử. Chỉ cần đầy
đủ ḷng tin chân thật, nguyện thiết tha, tŕ danh
hiệu Phật, cầu văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, làm một mảy may điều
thiện thế gian nào, cũng như mọi công
đức Lục Độ vạn hạnh, đều
đem hồi hướng văng sanh. Đây chính
là dùng tín nguyện của chính ḿnh để cảm
Phật từ bi, cảm ứng đạo giao, ắt
được Phật nhiếp thọ. Đợi
đến khi lâm chung, được Phật tiếp
dẫn văng sanh Tây Phương. Đă văng sanh rồi sẽ
ĺa xa trọn vẹn các khổ, chỉ hưởng các
sự vui, thân cận Di Đà, dự vào hải chúng,
chứng Vô Sanh, thành giác đạo, như trao bằng khoán
lấy lại vật cũ. So với các pháp
cậy vào tự lực để liễu sanh thoát tử
khác th́ sự khó - dễ cố nhiên là khác biệt một
trời một vực.
Hơn nữa, cậy vào tự lực th́
trong trăm ngàn vạn người, khó được
một hai kẻ liễu thoát ngay trong đời này,
bởi lẽ Định - Huệ phải trọn
đủ, phải hết sạch Hoặc nghiệp th́
mới được như nguyện. Nếu Hoặc
nghiệp c̣n mảy may chưa đoạn hết th́ sanh
tử luân hồi quyết khó thể xuất ly. Cậy vào
Phật từ lực th́ tín nguyện chân thành thiết tha,
vạn kẻ chẳng sót một ai! Độ khắp ba
căn, gồm thâu lợi - độn, thượng căn
th́ mau chứng Pháp Thân, hạ căn bèn
đới nghiệp văng sanh. Bản hoài
độ tận chúng sanh của Như Lai chỉ có ḿnh
pháp môn Tịnh Độ mới có thể thỏa rốt
ráo được. Do có những sự lợi ích
như trên cho nên xưa nay, vua thánh, tôi hiền, hào kiệt,
vĩ nhân, không ai chẳng tự hành, dạy người,
hộ tŕ lưu thông, để về mặt ngầm là
giúp cho việc trị nước, c̣n mặt hiển là yên
dân t́nh, tiêu họa loạn khi chưa chớm nẩy,
chứng Phật Tánh vốn sẵn có.
Gần đây, thế đạo nhân tâm ngày càng đi
xuống, ai nấy chấp vào sự hiểu biết
của chính ḿnh, cạnh tranh với nhau đến nỗi
đao binh liên miên, không lúc nào yên ổn. Hễ
người trên thích điều ǵ, kẻ dưới
ắt làm cho được. Những tên
dân ương bướng đều thành thổ phỉ
hết, mặc t́nh cướp đoạt, độc
hại dân sanh. Do sự ác của con người chiêu
cảm, nên trời bèn ứng thiên tai, lụt lội,
hạn hán, tật dịch, gió băo, động đất,
đủ mọi tai họa thảm khốc thường
thấy xảy ra luôn, vận nước nguy ngập, dân
không lẽ sống! Muốn ra tay cứu vớt, nhưng
khổ nỗi không sức, chỉ khẩn cầu những
vị đương có quyền thế và hết thảy
đồng bào, ai nấy hăy dùng cái tâm trung hậu, khoan
thứ sẵn có để hành đạo từ bi, coi
hết thảy nhân dân đều như người
ruột thịt, nâng đỡ lẫn nhau, chớ nên tàn
hại! Nghĩ đến tiền nhân hậu
quả ắt sẽ tu đức hành nhân, lợi
người quả thật chính là lợi ḿnh, đời
này, đời khác phước báo vô cùng. Hại
người gây ra sự khổ c̣n hơn tự hại,
đời này, tương lai, khổ báo vô tận! Phô phang quyền thế trong một lúc để
rồi thần thức chịu khổ măi bao kiếp.
Sao bằng tu đức suốt đời, ngơ hầu thân
tâm được hưởng vui sướng nhiều
đời!
Nhưng c̣n trong địa vị phàm phu
chưa đoạn được Hoặc nghiệp,
dẫu sanh vào nhân thiên, rốt cuộc vẫn chẳng
phải là chỗ an ổn rốt ráo. Nếu có thể tùy phận, tùy sức, tŕ danh
hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương, để mong
khi hết Báo Thân này sẽ cao đăng Cực Lạc,
đấy là đạo thoát khổ tối thượng.
Nhưng đường đường là
trượng phu, nỡ để Phật tánh sẵn có
thường bị Hoặc nghiệp xoay chuyển, chịu
sanh tử đau khổ ư? Trong Trung Hoa Tân Báo, ông
Trương Quư Loan mỗi ngày chuyên dành riêng một cột
để in bài đề xướng Phật học, tùy
thời đăng tải hết những chuyện Như
Lai ứng hóa, pháp đạo lưu thông, tội -
phước do tin nhận hay hủy báng, lợi ích do tu tŕ,
và những ngôn luận sự tích kiêng giết, phóng sanh,
ăn chay niệm Phật, ngơ hầu những vị
đọc báo đều cùng ngộ được lư “Phật, tâm, chúng sanh ba
điều không sai biệt” và làm chuyện “đoạn ác, tu thiện, khôi
phục nguồn tâm sẵn có”. Tôi cho rằng đây
quả thật là đạo “gốc
chánh, nguồn trong” để giữ nước,
bảo vệ dân, nhân đó toan đem những điều
quan trọng về thiên chức của chúng ta, sự sanh
thành dưỡng dục của trời đất, tâm pháp
của thánh hiền, cương yếu của Phật
giáo, và nguồn gốc đời loạn, nguyên do thái b́nh, thuật
đại lược ḥng cống hiến cho bậc cao
nhân có đủ con mắt trong cơi đời, nhưng
thẹn ḿnh văn tự thô vụng, chất phác, chẳng
thể diễn tả sâu xa, uẩn súc. Tuy vậy, về
mặt ư nghĩa cố nhiên chẳng phải là bàn xằng,
bịa đặt, nên có thể chấp nhận
được!
Hơn nữa, con
người sống trong thế gian, việc thành
đức đạt tài, dựng công lập nghiệp,
cũng như thành được một tài một
nghề để nuôi thân ḿnh và gia đ́nh đều
phải nhờ vào sức văn tự chủ tŕ giúp
đỡ th́ mới được thành tựu. Chữ nghĩa là của
báu quư nhất trong thế gian, có thể khiến cho phàm
thành thánh, ngu thành trí, nghèo hèn trở thành
phú quư, bệnh tật trở thành khỏe mạnh, yên
ổn. Đạo mạch thánh hiền
được lưu truyền thiên cổ, việc kinh
doanh của gia đ́nh ḿnh được truyền
đến con cháu, không ǵ không nhờ vào sức văn
tự. Nếu cơi đời không có văn tự th́
hết thảy sự lư đều chẳng thành lập,
con người chẳng khác ǵ cầm thú! Đă
có công sức như thế, cố nhiên phải nên trân
trọng mến tiếc chữ nghĩa. Trộm
thấy con người hiện thời mặc t́nh khinh
nhờn, quả thật coi của quư báu nhất khác nào
phân, đất; sao không đến nỗi hiện
đời tổn phước, giảm thọ; đời
sau trở thành vô tri vô thức ư? Thêm nữa, chẳng
những không được khinh nhờn, ruồng rẫy
văn tự hữu h́nh, mà đối với chữ
nghĩa vô h́nh lại càng chẳng được khinh
nhờn, ruồng rẫy! “Hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm,
sỉ”, nếu chẳng tận sức thực hiện
th́ chính là quên mất tám chữ đó. Đă
quên mất tám chữ ấy th́ sống làm hạng cầm
thú mặc áo, đội mũ; chết sẽ đọa
trong tam đồ ác đạo, có đáng buồn hay
chăng?
[1] . Ôn: bệnh dịch, hoàng: tức nạn cào cào, châu chấu, sâu bọ phá hoại mùa màng.
[2] . Quân tử trên kèo nhà (lương thượng quân tử) tức kẻ trộm.
[3] . Tương tức tương thông: Tâm ta và tâm người hệt như nhau, cùng một bản thể nên có thể coi như một. Do có cùng bản thể nên thông suốt không trở ngại, người khác khởi lên tâm niệm, ta nhận biết rơ ràng; ta khởi lên tâm niệm, người khác biết ngay.