Bài Luận 3 - Tông - Giáo Bất Nghi Hỗn Lạm Luận

(Bài luận về chuyện không nên lẫn lộn giữa Thiền và Giáo)

Do người giảng kinh thường thích bàn về Thiền nên làm luận này.

Như Lai nói kinh, chư Tổ tạo luận. Hai môn Tông và Giáo vốn là một pháp. Dẫu không thể tách rời, nhưng cũng không thể hợp lại! Tùy theo căn cơ mà được lợi ích, tùy theo từng lợi ích mà đặt tên. Thượng căn vừa nghe liền nhanh chóng liễu giải tự tâm, viên tu đạo phẩm, nên gọi là Tông (Đây là ước theo đời sau mà nói, chứ thoạt đầu chỉ gọi là giáo pháp Viên Đốn). Hàng trung hạ nghe đến, tấn tu đạo phẩm, dần dần ngộ được chân lư, nên gọi là Giáo.

Đến cuối thời Tượng Pháp, Phật pháp truyền sang cơi này (Trung Hoa), căn cơ con người thông minh, nhạy bén, đa số đắc Văn Tŕ nên chú trọng chuyện ghi nhớ, đọc tụng, giảng nói. Tăng chúng chú trọng

201. Theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Hùng Tuấn, họ Châu, người Thành Đô, Tứ Xuyên, tuy thường khuyên người làm lành, nhưng chẳng có giới luật và đức hạnh, từng hoàn tục làm lính. Chẳng lâu sau, lại xuất gia làm Tăng, nhưng cũng biết hổ thẹn, sám hối. Thường ngày thường tŕ niệm danh hiệu Phật. Trong niên hiệu Đại Lịch thời Đường Đại Tông, đột nhiên chết đi, vào U Minh, bị Diêm Vương quở trách, sai tống vào địa ngục. Hùng Tuấn kêu to: “Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói tạo trọng tội Ngũ Nghịch, chỉ cần lâm chung niệm Phật mười tiếng liền được văng sanh thế giới Cực Lạc. Hùng Tuấn tôi tuy từng tạo ác, nhưng cũng chưa hề phạm trọng tội Ngũ Nghịch. Nếu chiếu theo công đức niệm Phật thường ngày của tôi, đáng lẽ phải văng sanh Tịnh Độ mới phải. Nếu không, mười phương chư Phật đều thành đại vọng ngữ!” Nói xong, chắp tay cung kính chuyên tâm niệm Phật hiệu, ngay lúc đó, đài sen bảy báu chợt xuất hiện, Hùng Tuấn bèn cỡi đài sen báu ấy bay về Tây.

Duy Cung là người Kinh Châu (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc), thường có những ác nghiệp rượu chè, cờ bạc, nhưng nếu không làm chuyện ấy bèn thường tụng kinh, cầu nguyện văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Một ngày nọ, Duy Cung sanh bệnh, Linh Quy ra ngoài chùa chơi, thấy một bầy trẻ nhỏ cầm nhạc khí bèn hỏi chúng đi đâu. Chúng đáp đến chuẩn bị tiếp dẫn Duy Cung Thượng Nhân về Tây. Trong đám đó, có một người cầm một đóa sen, búp sen c̣n chưa nở to như nắm tay. Cánh sen phóng quang minh. Ngày hôm sau, Linh Quy về chùa thấy Duy Cung đă văng sanh; nhân đó, Linh Quy cảm kích, giác ngộ, từ đấy cải ác tu thiện, sau cũng được tiếng là người đức hạnh.

đến chuyện bổn phận, hướng thượng, chứ người thật chứng, thật ngộ th́ ít, kẻ nói chuyện ăn, đếm của báu th́ nhiều. Do vậy, đại sư Đạt Ma đặc biệt sang đây, xiển dương pháp Trực Chỉ Nhân Tâm (chỉ thẳng vào cái tâm của con người) khiến cho con người tự thấy được bản lai diện mục. Đời sau gọi đó là Tông. Đă thấy được bản lai diện mục rồi, sau đó xem kinh, tu hành, mới biết giáo pháp của toàn bộ Đại Tạng đều là những lời nói trong nhà ḿnh, Lục Độ vạn hạnh đều là chuyện trong nhà ḿnh. Do vậy, sự ngộ giải của Tông môn là mắt, sự tu tŕ của Giáo là chân. Không mắt th́ không cách ǵ thấy đường được; không chân không thể về đến nhà. Như vậy, Tông - Giáo cần nhau, chứ không hề trái nghịch, hợp cùng nhau chứ chẳng tách ĺa. Xét đến chỗ chỉ quy rốt ráo của các vị Nam Nhạc, Thiên Thai th́ đại lược đều giống nhau. Do vậy, hai bộ sách Truyền Đăng Lục và Chỉ Nguyệt Lục[1] đều xếp hai vị này vào bậc Thánh Hiền ứng hóa, Cao Tăng Truyện không kể tên hai vị trong những vị nghĩa giải[2] mà xếp vào tiểu loại tu Thiền. Đấy là những vị tri thức đầy đủ con mắt thời xưa, cho Tông và Giáo là nhất quán.

Từ ngài Tào Khê (Lục Tổ Huệ Năng) trở về sau, Thiền Đạo thịnh hành, loại văn tự “chẳng lập văn tự” truyền khắp hoàn vũ. Đường giải ngày càng mở rộng, cửa ngộ[3] ngày càng lấp. V́ thế, các vị tổ Nam Nhạc, Thanh Nguyên đều dùng cơ ngữ để tiếp độ người, khiến cho Phật - Tổ đều thành ngữ ngôn, không cách nào trả lời câu hỏi được. Nếu không thật sự liễu ngộ thích đáng sẽ không thể suy lường được lời Tổ. Dùng điều đó để khám nghiệm ḥng phân biệt vàng - thau, tách rời ngọc - đá vĩnh viễn, không thể giả dối để làm hại pháp đạo được! Đấy là duyên do của cơ phong chuyển ngữ!

Từ đấy về sau, pháp này ngày càng thịnh. Tri thức nêu bày, chỉ sợ lạc vào lối cũ của người khác thành ra sáo rỗng, gây nghi ngờ, lầm lạc cho người học khiến Tông phong bị bỏ phế, rối bời; v́ vậy, cơ phong được dùng ngày càng cao chót vót, không cách chi chuyển biến được, khiến cho người ta không cách nào ḍ dẫm, nắm níu được! Do vậy, mới có kẻ quở Phật mắng Tổ, bài xích kinh giáo, phế bỏ Tịnh Độ (hai câu của Nam Nhạc Huệ Tư đại sư đă nói trọn tác dụng như vậy: “Siêu quần xuất chúng thái hư huyền, chỉ vật truyền tâm nhân bất hội” (Tạm dịch: Siêu quần xuất chúng huyền diệu như hư không. Chỉ vật để truyền thọ tâm pháp, con người không hiểu thấu được. Nếu hiểu đó là thật pháp th́ tội giống như Ngũ Nghịch!) Dùng ngôn ngữ này để tước đoạt t́nh kiến của con người, lấp mất lối hiểu của họ. Người căn cơ chín muồi sẽ ngay lúc đó biết đường về, triệt ngộ nẻo hướng thượng. Người căn cơ c̣n sống sít sẽ thật sự tận lực tham cứu, đến khi nào đại triệt đại ngộ mới thôi!

Ấy là do hàng tri thức c̣n đông, căn cơ người vẫn c̣n bén nhạy, giáo lư minh bạch, tâm sanh tử thiết tha. Dù chưa thể liễu ngộ ngay khi đó, quyết chẳng chịu sanh tâm kém hèn cho đó là thật pháp. Người đời nay đa phần ít đọc sách Nho, chẳng hiểu lẽ đời, chưa cùng tột giáo thừa, chẳng hiểu Phật pháp. Vừa mới phát tâm bèn vào ngay Tông môn. C̣n hàng tri thức chỉ nhằm duy tŕ môn đ́nh, cũng học đ̣i cổ nhân chỉ bày, xiển dương, chẳng đoái hoài chuyện lợi - hại cho pháp đạo. Người học chẳng hạ nghi t́nh chân thật, ai nấy cho đó là thật pháp. Hoặc có những điều người đời nay nêu lên đều là những đạo lư do họ tự ư suy lường, phỏng đoán những chuyện trong sách của cổ nhân xưa, nói chung không ngoài chuyện dựa theo văn tự để giải thích ư nghĩa, lại tự cho là ḿnh triệt ngộ hướng thượng, đă tham học xong xuôi, tự dự vào địa vị tri thức để mở mang, chỉ dạy cho hàng hậu học!

Kẻ nắm giữ một môn đ́nh, chỉ sợ người khác bảo ḿnh không phải là bậc thông gia; do đó, cùng hoằng dương cả Thiền lẫn Giảng, muốn được gọi là bậc “Tông thuyết đều thông”. Bàn đến Tông th́ những ǵ họ giảng về những lời chỉ quy hướng thượng của cổ đức toàn là giải thích ư nghĩa dựa theo văn tự. Giảng về Giáo th́ đạo tu nhân chứng quả của Như Lai bị họ biến thành thuyết “dùng pháp để tượng trưng, nhằm thuyết minh ư nghĩa”. Dùng Giáo phá Tông, dùng Tông phá Giáo, người mù dẫn lũ đui, kéo nhau vào lửa! Đến nỗi về sau chẳng được nghe khuôn mẫu hay đẹp của cổ nhân, uổng công học đ̣i khinh Phật khinh Tổ, bài bác nhân quả mà thôi, trọn chẳng hiểu được lời lẽ của cổ nhân. Bổn phận của Tăng chúng há c̣n mộng thấy! Nay tôi sẽ đem lời lẽ, bản ư của Tông và Giáo phân biệt đại lược, ngơ hầu ai nấy chỉ được lợi ích, chẳng bị bệnh vậy!

Tông là ǵ? Giáo là ǵ? Về mặt diễn nói th́ Tông và Giáo đều là Giáo, về mặt khế ngộ th́ Tông và Giáo đều là Tông. Giáo cố nhiên có Tông, mà Tông cũng có Giáo. Tông của bên Giáo chính là diệu lư Thật Tướng, tam đức bí tạng; đấy chính là bổn phận hướng thượng của tăng chúng bên Tông vậy (Đây là đối với Tông mà nói, nên gọi Thể là Tông. Nếu luận theo Giáo th́ gọi là Thể. Tông trong Giáo chính là cửa ngơ để nhập Thể, không giống như chỗ chú trọng hướng thượng của bên Tông).

Giáo của bên Giáo chính là văn tự, lời lẽ trong kinh luận và hành tướng của pháp môn, không ǵ đều chẳng nhằm diễn tả diệu lư, đều quy về bí tạng; cũng giống như những tác dụng của cơ phong chuyển ngữ bên Tông. Nhưng Giáo th́ chưa ngộ vẫn làm cho hiểu được, c̣n Tông nếu chưa ngộ sẽ không biết. Đấy gọi là chỗ khác nhau [giữa Tông và Giáo].

Giáo của bên Tông chính là cơ phong chuyển ngữ, giơ nắm tay, dựng đứng phất trần, hoặc nói, hoặc im lặng, mọi thứ tác dụng đều thuận theo căn cơ của người đến tham vấn để chỉ quy hướng thượng. Những câu chuyển ngữ ấy nhằm để nêu bày lẽ hướng thượng, là ngón tay chỉ mặt trăng thật sự, chứ không phải những câu chuyển ngữ đó chính là lẽ hướng thượng hay mặt trăng thật sự. Nếu có thể nương theo ngón tay nh́n vào mặt trăng th́ ngay khi đó sẽ tự thấy được vầng trăng thật sự. Vầng trăng thật sự được thấy ấy mới chính là Tông của Tông gia. Người đời nay lấy cơ phong chuyển ngữ làm Tông, chẳng cầu khế ngộ, chỉ cho rằng học theo đó sẽ hiểu thấu, tức là coi ngón tay chính là mặt trăng, không c̣n biết đến vầng trăng thật sự! Tiếc thay!

          Vả nữa, Giáo thích hợp khắp ba căn, lợi - độn cùng thâu; ví như tờ chiếu sáng suốt của bậc vua thánh, muôn nước đều khâm phục, tôn sùng. Dù trí hay ngu, dù hiền hay tệ đều hiểu được, đều phải tuân hành; kẻ nào không tuân sẽ bị xử cực h́nh. Kẻ nào không tuân lời Phật dạy sẽ đọa trong ác đạo. Tông chỉ độ riêng bậc thượng căn, chẳng thâu nhiếp trung hạ. Ví như mật lệnh của vị tướng quân, kẻ trong doanh mới biết, người ngoài doanh dẫu cho thông minh cũng không thể hiểu được! Do vậy, toàn quân mới diệt được giặc, thiên hạ thái b́nh. Quân lịnh hễ bị tiết lộ th́ ba quân sẽ tan vỡ; Tổ ấn bị tiết lộ, năm tông chết sạch. Trước khi ngộ, chỉ cho phép tham cứu thoại đầu, chẳng cho phép đọc sách Thiền thật ra là v́ sợ hiểu lầm ư Tổ, coi mê là ngộ, đem giả loạn chân, đấy gọi là “tiết lộ”, cái hại rất lớn! Sau khi đại ngộ, ắt phải rộng xem ngữ lục của chư Tổ ḥng quyết trạch kiến địa của ḿnh, ḥng mở mang Sai Biệt Trí, để hiểu thấu chỗ cấm kỵ của thuốc. Lại c̣n phải trải qua nhiều duyên rèn luyện, khiến cho hạnh giải tương ứng mới thành bậc xuất thế, hoằng dương, xiển phát Tông phong.


Người đời nay chẳng dạy người tận lực tham cứu, cứ v́ người diễn giảng, khiến cho đường hiểu mở rộng, khởi ư suy đoán, dùng ư kiến của ḿnh để hiểu ư Tổ, dường như gần giống, suy tưởng nghĩa lư. Hoàn toàn sai lầm, nhưng cứ cho là đúng. Nói không sai cho lắm th́ chỉ toàn là rồng bằng đất nặn, bánh vẽ, há có thể phun mưa, đỡ đói được chăng? Do vậy, nhà Thiền phải thật sự tham cứu mới có lợi ích thật sự! Người chưa mở mắt, nghe những lời giảng nói đó, mừng rỡ lộ ra ngoài. C̣n người có đầy đủ con mắt ắt sẽ đau thấu xương tủy. Hoằng dương Tông kiểu đó chỉ có tổn hại lớn, chẳng có mảy may lợi ích thật sự ǵ! Khác nào đem quân lịnh bảo khắp quân địch, mời mọc chúng nó đánh nhau với ḿnh mà không tự diệt vong th́ hiếm lắm! Do vậy, kẻ giả vờ ngộ đạo không biết là bao nhiêu! Kẻ hoại loạn Phật pháp thật là đông đảo!

Thêm nữa, Giáo th́ do văn tự hiển lộ ư nghĩa, y nghĩa tu Quán. Quán thành tựu sẽ chứng Lư, khiến cho con người do hiểu rồi bèn nhập. V́ vậy, ngài Thiên Thai dùng Tam Chỉ, Tam Quán205 để truyền Phật tâm ấn. C̣n Tông th́ ĺa văn tự để hiển ư, hễ lănh hội được ư th́ minh tâm, minh tâm rồi bèn khởi hạnh, dạy hành nhân do tham cứu mà chứng đắc. Do vậy, Thiền Tông lấy “trực chỉ nhân tâm” để truyền Phật tâm ấn.

Vả nữa, nhân - quả, tu - chứng, phàm - thánh, chúng sanh - Phật, sự - lư, hành - tướng được nói trong kinh giáo vằng vặc phân minh. Nếu tu được nhân th́ tự nhiên sẽ chứng quả, siêu phàm nhập thánh, tức là chúng sanh thành được Phật đạo! Đă đạt được sự này th́ chẳng dính dáng đến lư nhân - quả, tu - chứng, phàm - thánh, chúng sanh - Phật, há c̣n mong cầu bên ngoài nữa ư? Những ǵ nhà Thiền nói đều quy về bổn phận, chẳng dính dáng đến “nhân - quả, tu - chứng, chúng sanh - Phật” (Đây là Lư Tức Phật). Nếu hiểu được ư này (Đây gọi là Danh Tự và Quán Hạnh Sơ Tâm), quyết định y theo cái lư “chẳng dính dáng nhân - quả, tu - chứng, phàm - thánh, chúng sanh - Phật” để khởi sự tu nhân chứng quả, siêu phàm nhập thánh th́ đó chính là Sự để chúng sanh thành Phật đạo vậy (Đây là từ Quán Hạnh cho đến Cứu Cánh).

Do vậy, cổ đức sau khi đại ngộ có những vị ba lần bảy lượt xem Đại Tạng Kinh (Phần Châu Vô Nghiệp ba lượt đọc hết Đại Tạng. Ngài Tri Vi ở chùa A Dục Vương, là môn nhân của ngài Đại Huệ Tông Cảo, giam ḿnh trên tháp viện hơn mười năm, bảy lượt đọc hết Đại Tạng. Xem trong sách Dục Vương Sơn Chí). Có người cho ngồi đọc là không cung kính, bèn quỳ đọc, đi th́ đội lên đầu, đứng tụng (ngài Thê Hiền Đề ba lần đọc hết Đại Tạng đều như thế). Có vị suốt đời hằng ngày tŕ một bộ kinh Pháp Hoa (như các vị Vĩnh Minh Diên Thọ, Thủ Sơn Niệm). Có vị xem kinh chỉ sợ bị làm phiền, bèn dán

205. Tam Chỉ: Chỉ là ngưng dứt. Tam Chỉ là ba thứ Chỉ Hạnh được lập đối ứng ba phép quán Không, Giả, Trung, gồm:

a.                   Chân Thể Chỉ: đối ứng với Không Quán. Thấu hiểu cái vọng vô minh điên đảo chính là cái chân nơi Thật Tướng, nên gọi là Chân Thể Chỉ. Do thấu triệt các pháp nhân duyên ḥa hợp, không có tự tánh nên có thể dứt hết thảy những phan duyên vọng tưởng, chứng nhập lư Không. Đạt đến cảnh giới này sẽ phát định, mở huệ nhăn, thấy được Đệ Nhất Nghĩa, thành tựu Chân Đế tam-muội.

b.                  Phương Tiện Tùy Duyên Chỉ: Đối ứng với Giả Quán. Bồ Tát tùy duyên trải qua mọi cảnh, ở trong Tục Đế nhưng tâm bất động, chẳng bị ngoại cảnh xoay chuyển. Người đạt cảnh giới này sẽ mở Pháp Nhăn, thành tựu Tục Đế tam-muội.

c.                   Tức Nhị Biên Phân Biệt Chỉ, c̣n gọi là Chế Tâm Chỉ: Đối ứng với Trung Quán. Không c̣n phân biệt hai bên sanh tử, Niết Bàn, tướng có, tướng không. Nếu đạt cảnh giới này sẽ phát Trung Đạo định, mở Phật Nhăn, thành tựu Trung Đạo tam-muội.

thiếp ở cửa phương trượng, ghi: “Lúc xem kinh chẳng được hỏi han” (ngài Ngưỡng Sơn Tịch). Có vị tŕ thánh hiệu Quán Âm (ngài Minh Giáo Tung, mỗi ngày tŕ mười vạn thánh hiệu Quán Âm. Kinh sách thế gian, xuất thế gian không đọc nhưng đều biết. Lại c̣n có ngài Hoa Lâm Giác thường niệm Quán Âm, cảm được hai con hổ thường theo hầu). Có vị tŕ chú Chuẩn Đề (như Kim Hoa Câu Chi ḥa thượng). Có vị mỗi ngày làm 108 Phật sự (Vĩnh Minh Diên Thọ, tụng một bộ Pháp Hoa cũng thuộc trong 108 việc ấy). Có vị đối trước tượng đứng không dám ngồi, đối trước tượng ngồi không dám nằm (ngài Đại Thông Bổn. Hễ thấy những vật thực mang tên thịt cá, Ngài không ăn). Có vị một ngày không làm sẽ không ăn suốt ngày đó (ngài Bách Trượng Hoài Hải). C̣n những vị niệm Phật cầu sanh Tây Phương th́ nhiều không biết bao nhiêu mà kể!

Ấy là v́ ngài Bách Trượng là đích tử truyền đạo của Mă Tổ, Ngài có lời khai thị rằng: “Tu hành dùng niệm Phật là ổn thỏa, thích đáng”. Ngài c̣n lập ra Thanh Quy, phàm kỳ đảo cho vị Tăng bị bệnh, hóa tống Tăng đă mất, đều quy về Tịnh Độ. Do vậy, chư sư trong năm tông[4] đều chăm chú ngầm tu. Có lắm vị nhiều năm tận tụy làm những việc khó khăn (như ngài Quy Sơn làm Điển Tọa[5], ngài Tuyết Phong làm phạn đầu). Không vị nào chẳng nhằm viên măn Lục Độ, tự lợi, lợi tha, đều trọng Pháp này như của báu, coi thường cái thân như bụi bặm, trọn chẳng hề như người đời nay khinh mạn cổ kim, khinh nhờn kinh luận! Do vậy, biết Tông là đội xung kích, Giáo là quân mạnh mẽ theo sau. Những việc họ tu là một sự, những ǵ họ nói là một pháp, nhưng do lập bày ngôn ngữ, kiến lập môn đ́nh bất đồng! Kẻ ngoài cửa chẳng biết duyên do “tuy đồng nhưng không thể hợp, tuy khác nhưng chẳng thể tách ĺa”, lầm lạc dựa theo ư ḿnh, cưỡng làm chủ tể, nếu không báng bổ lẫn nhau th́ cũng xen lộn.

Cái lỗi báng bổ lẫn nhau may ra kẻ ngu c̣n biết, chứ cái tội xen

lộn th́ người trí vẫn khó ḷng hiểu được. Ấy là trở về nguồn th́ không hai, nhưng phương tiện lắm cửa. Phương tiện của nhà Thiền vô cùng khác biệt, tợ hồ quét sạch tất cả ngôn ngữ. Kẻ không hiểu được ư, chẳng lănh hội ư chỉ “ĺa ngôn ngữ” chỉ nhai bă hèm: Nơi Tông môn bèn mở ra đường hiểu, chẳng chịu tận lực tham cứu; nơi Giáo bèn lầm học viên dung, phá hoại sự tướng. Chỉ có bậc đại đạt mới được lợi ích ở cả hai bên. Nếu không, đề hồ, cam lộ chứa trong đồ đựng dính thuốc độc bèn biến thành phê sương, trầm độc.

Giáo tuy thường minh thị “vạn pháp duy tâm”, nhưng cần phải dựa trên Sự để luận Sự. Sự - Lư, nhân - quả, chẳng được lẫn lộn mảy may. Vốn đă có đầu th́ phải có cuối, chẳng ra ngoài duy tâm. Nhà Thiền thương lượng đích thực cũng giống như thế. Nếu chỉ nêu bày hướng thượng, th́ dù có chỉ muôn pháp muôn sự trọn khắp thế gian để hỏi nhưng lúc đáp luôn quy về bổn phận, trọn chẳng đem Sự luận Sự. Đó gọi là “hỏi ngay nơi đáp, đáp ngay tại chỗ hỏi”.

Dù tợ hồ dùng Sự để nói, nhưng ư nhằm đến chỗ khác chứ không phải ở tại đây. Nếu hiểu ngay nơi sự đó sẽ thành mây trắng ngàn dặm! Những thương lượng đích thực sách Thiền không chép, chỉ ghi chép những lời thuộc về bổn phận. Nếu muốn biết phải coi khắp mọi sách. Nếu không th́ hăy xem bộ Vạn Thiện Đồng Quy Tập và những trước thuật của bậc Thiền Tượng trong Tịnh Độ Thập Yếu, cũng có thể thấy được đại khái.

Bàn rạch ṛi Phật pháp về mặt đại thể, th́ chẳng ngoài Chân - Tục nhị đế. Chân Đế th́ một pháp chẳng lập, đó gọi là “Thật Tế Lư Địa chẳng nhiễm mảy trần”. Tục Đế th́ không pháp nào chẳng đủ, đó gọi là “trong cửa Phật sự, chẳng bỏ pháp nào!” Giáo th́ Chân - Tục cùng xiển dương, nhưng đa phần luận về Tục. Tông th́ ngay từ Tục bèn nói Chân, nhưng quét sạch Tục tướng. Phải biết: Chân và Tục đồng thể, không phải là hai vật. Ví như gương báu tṛn lớn, trống rỗng, sáng ngời, thông suốt, trọn không có một vật ǵ. Tuy trọn chẳng có vật ǵ nhưng lại có thể “người Hồ đến bèn hiện bóng người Hồ, người Hán đến bèn hiện bóng người Hán”. Sâm la vạn tượng thảy đều hiện. Dẫu cho mọi tướng cùng hiện, nhưng vẫn trọn không có một vật nào. Dẫu không có một vật nào, nhưng chẳng ngại ǵ mọi tướng cùng hiện!

Đối với chỗ “mọi tướng cùng hiện”, nhà Thiền chuyên nói “trọn không có một vật”; c̣n Giáo đối với chỗ “trọn không có một vật” lại nói cặn kẽ “mọi tướng đều hiện”. Ấy là đối với Sự Tu, Tông bèn chỉ rơ Lư Tánh; chứ không vứt bỏ Sự Tu. C̣n Giáo th́ bèn luận Sự Tu nơi Lư Tánh, nhưng vẫn quy về Lư Tánh. Đấy gọi là “xứng tánh khởi tu, toàn tu nơi tánh, bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến, Sự - Lư cùng được, Tông - Giáo bất nhị” vậy! Tuy trung căn, hạ căn được lợi ích nơi Giáo, nhưng nếu không phải là bậc thượng thượng căn sẽ chẳng thể thông suốt v́ phải học biết rộng răi. Tuy trung hạ căn khó thể gởi ḷng nơi Tông, nhưng bậc thượng căn lại có thể đại triệt; do đó phải ước theo căn cơ vậy!

Giáo th́ thế gian pháp, Phật pháp, sự - lư, tánh - tướng đều phải thông đạt, lại phải đại khai viên giải (tức là “đại triệt đại ngộ” trong nhà Thiền) th́ mới có thể làm đạo sư cho trời người. Tông phải tham sao cho thấu suốt một câu thoại đầu, đích thân thấy được bản lai mới ḥng xiển dương tông phong Trực Chỉ. Lúc Phật pháp đại hưng thịnh và nếu là bậc thông đạt Phật pháp th́ nên y theo Tông để tham cứu. Ví như ông Tăng Dao[6] vẽ rồng, vừa chấm mắt, rồng bèn bay lên ngay lập tức. Lúc Phật pháp suy nhược, và nếu là kẻ túc căn hèn kém, hăy nên y theo Giáo tu tŕ. Ví như thợ vụng làm đồ vật, bỏ dây mực sẽ hoàn toàn không làm được ǵ.

Giáo phần nhiều nói rơ (hiển thuyết), c̣n Tông hay nói kín (mật thuyết). Chuyện rơ ràng trong nhà Thiền là như Tổ Đạt Ma nói: “Tịnh trí diệu viên, thể tự không tịch” hay Mă Tổ nói: “Tâm chính là Phật”, ngài Bách Trượng nói: “Linh quang riêng chiếu, thoát khỏi căn trần; thể lộ chân thường, chẳng câu nệ văn tự, tâm tánh vô nhiễm, vốn tự viên thành. Chỉ ĺa vọng niệm th́ chính là Như Như Phật”. Những câu này chẳng khác các kinh Đại Thừa như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm… mảy may nào! Nói chung, trước thời Lục Tổ đa phần là hiển thuyết, kể từ Lục Tổ trở đi đa phần là mật thuyết.

Kẻ ngu chẳng biết căn cội giống nhau – khác nhau giữa ngôn ngữ của Tông và Giáo, thường thấy khi Thiền sư nêu câu hỏi, những vị thuộc bên Giáo không thể đáp được, bèn đề cao Thiền Tông, miệt thị kinh sách bên Giáo, xem kinh Phật như giấy cũ, coi lời Tổ trọng hơn luân âm (luân âm tức là thánh chỉ). Nay muốn báo ơn Phật, lợi lạc hữu t́nh th́ bên Thiền dù chuyên xiển dương Tông phong, vẫn phải dùng đến Giáo để ấn chứng, bên Giáo th́ tận lực tu quán hạnh, chẳng xen lạm lời Thiền. Ấy là v́ tâm thông diệu đế, gặp duyên bèn chính là Tông. Nếu “cây bách, que phẩn khô, quạ kêu, sẻ hót, nước chảy, hoa rơi, khạc nhổ, vung tay, cười chê, giận chửi”, pháp ǵ, chuyện ǵ cũng đều là Tông, th́ lẽ đâu diệu pháp viên đốn do chính kim khẩu Như Lai nói ra lại chẳng đáng coi là Tông ư?

 Cần ǵ phải vay mượn cái then chống cửa nhà người ta để chống đỡ môn đ́nh của ḿnh, c̣n những cây tiện, cây nam[7] đẹp đẽ nhà ḿnh sẵn có lại bỏ đi không dùng? Phải biết: Pháp không thù thắng hay kém hèn, chỉ là một đạo thường nhiên. Căn cơ có sống - chín, nên tuy chỉ là một pháp mà thành ra hết sức sai khác đó thôi. Nếu vậy, cái thuyết “giáo ngoại biệt truyền” (truyền riêng ngoài giáo) chẳng đúng hay sao? Thưa: Nói “giáo ngoại biệt truyền” nhằm để cho con người thấy được mặt trăng ở ngoài ngón tay. Vả lại cách đề tŕ[8] trong nhà Thiền vượt ra ngoài cách thức thông thường, nên gọi là “giáo ngoại biệt truyền”. Nhưng bốn chữ “giáo ngoại biệt truyền” khiến bao hào kiệt mai một, nay nói toạc ra. Đối với Giáo mà nói th́ là “giáo ngoại biệt truyền”, chứ cơ phong, chuyển ngữ v.v… cũng vẫn là Giáo. Đối với Tông mà nói th́ [Giáo chính là] “cơ phong chuyển ngữ ngoại biệt truyền”, mới khỏi cô phụ ơn Phật, uổng công gây tạo khẩu nghiệp.

Nếu thật sự những lời Phật dạy chẳng thể truyền được Phật tâm

ấn, th́ những vị Ca Diếp, A Nan, Mă Minh, Long Thọ đă được biệt truyền, đương nhiên sẽ truyền riêng cái pháp biệt truyền ấy, cần ǵ phải kết tập Tam Tạng, chú giải kinh, tạo luận để làm chi nữa? Tông phải dùng Giáo để ấn chứng, cũng giống như gỗ phải cưa theo vạch dây mực mới ngay được! Tôi thường khuyên một vị cuồng Tăng niệm Phật, ông ta nói: “Lỗ mũi của nạp tăng[9] tam thế chư Phật c̣n chẳng ṃ trúng được, niệm Phật để làm ǵ?” Tôi nói: “Nếu quả thật ṃ trúng được cái mũi mà tam thế chư Phật chẳng ṃ trúng được th́ vẫn phải thường dẫm theo vết chân của tam thế chư Phật mà đi. Nếu chẳng dẫm theo vết của tam thế chư Phật mà đi th́ không phải là ṃ trúng lỗ mũi của nạp tăng mà là ṃ đúng lỗ lửa trên giường sắt, cột đồng trong A Tỳ địa ngục!” Tổ Đạt Ma nói: “Hơn hai trăm năm sau, người hiểu đạo th́ nhiều, người hành đạo th́ ít; người nói lư th́ nhiều, người thông lư th́ ít”. Ngài Trí Giả thị hiện chứng địa vị Ngũ Phẩm, ngài Nam Nhạc thị hiện chứng địa vị Thiết Luân. Do vậy, biết rằng người đời nay đối với hai môn Tông và Giáo, mở mắt c̣n khó, huống ǵ thật chứng?

Có những ai từ bi, nguyện sâu nặng, tâm sanh tử khẩn thiết, hăy nên noi theo các ngài Huệ Viễn, Trí Giả, Vĩnh Minh, Liên Tŕ, chuyên dốc sức nơi một môn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Viết đến đây, có người bên cạnh chẳng cam ḷng, quở rằng: “Phật pháp rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, diệu tánh viên minh, ĺa các danh tướng, sao ông lại đôi co, chia ranh vạch giới vậy?” Tôi đáp: “Diệu tánh tuy ĺa danh tướng, nhưng danh tướng nào trở ngại diệu tánh. Hư không, pháp giới tuy không có ranh giới, nhưng ranh giới nào trở ngại hư không, pháp giới! Tôi muốn bỏ Đông về Tây nên phải biện định Nam - Bắc, ngơ hầu chẳng mê phương hướng, có nơi tá túc. Lại sợ ḿnh thấy sai lầm, muốn thỉnh giáo bậc thông đạt. Đây chính là lộ tŕnh của kẻ thọt chân, chứ không phải là “dư bản” của Luân Vương đi!” (“Dư bản” là bản địa đồ).

Nếu là bậc Khai Sĩ hiểu thấu suốt phương hướng, là bậc đại nhân đại lượng th́ pháp thế gian đều là Phật pháp, không nghiệp đạo nào chẳng phải là Phật đạo, ư Tổ, giáo lư, kinh Phật, sách Thiền vốn tự dung thông, há nào xen lộn? Tận hết cái trí của tôi chẳng thể suy lường được cảnh giới ấy. Dốc cạn sức tôi, chẳng thể trộm bén mảng ngoài rào! Lời luận hèn tệ của tôi chỉ để dành cho những người căn cơ kém tệ như tôi vậy. Sao ông lại đem chuyện bay lượn của Ca Lâu La[10] vương để quở trách loài ruồi nhặng muỗi ṃng, muốn coi đều ngang như nhau vậy!

 



[1] . Chỉ Nguyệt Lục: tác phẩm của Cù Nhữ Tắc soạn vào đời Minh, gồm 32 quyển, c̣n gọi là Thủy Nguyệt Trai Chỉ Nguyệt Lục. Nội dung chép về quá khứ thất Phật và hành trạng, pháp ngữ của tổ sư Tây Thiên, Đông Độ gồm sáu trăm năm mươi vị từ Sơ Tổ Ca Diếp cho đến ngài Đại Huệ Tông Cảo.

[2] . Nghĩa giải: Hiểu rơ ư nghĩa; c̣n có nghĩa là phân tách chữ nghĩa để giải thích nghĩa lư. Trong Thiền Lâm thường dùng chữ “nghĩa giải thiền ḥa tử” để chỉ kẻ chỉ hiểu nghĩa lư theo mặt văn tự bên ngoài, chẳng biết đường lối tu hành, không có thật hạnh.

[3] . Đường giải, cửa ngộ: Tạm dịch hai chữ “giải lộ” và “ngộ môn”. Giải lộ ư nói chỉ hiểu biết trên văn tự chứ không chứng ngộ, c̣n ngộ môn là thật sự chứng nhập.

[4] . Năm Tông của nhà Thiền, tức Quy Ngưỡng, Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhăn.

[5] . Điển Tọa: là chức phụ trách việc quản trị cơm nước cho đại chúng trong Thiền lâm, đảm bảo mọi thứ cúng dường phải tinh khiết, vật liệu sử dụng thích đáng, tiết kiệm. Tuy là chức quản lư tạp dịch ẩm thực, nhưng từ xưa chức này rất được coi trọng, thường cử vị tăng chí hạnh cao khiết giữ chức này. Chức vụ này rất vất vả, nhưng đối với bậc cao tăng th́ lại là một phương tiện thù thắng để tu hành.

[6] . Trương Tăng Dao (502-549) là một danh họa đời nhà Lương thời Nam Bắc Triều, cùng với Cố Khải Vi, Lục Thám Vi và Ngô Đạo Tử (thuộc đời Đường) được xưng tụng là Họa Gia Tứ Tổ (bốn ông tổ của hội họa). Tăng Dao sở trựng tài vẽ diện mạo nhân vật. Lương Vơ Đế từng sai ông vẽ h́nh các hoàng tử phải đi trấn nhậm nơi xa cho đỡ nhớ. Ông vẽ tài t́nh đến nỗi hoàng đế phải khen ngợi nh́n h́nh giống như thấy người thật. Ông chịu nhiều ảnh hưởng của hội họa Ấn Độ, là người đi tiên phong trong cách vẽ thể hiện không gian ba chiều.

[7] . Nam là tên một loại gỗ quư (Phoebe Zhennan), gần giống gỗ cḥ bên ta. Tiện là một loại danh mộc chỉ được nhắc đến trong cổ thư, thường gọi là Hoàng Tiện, rất cứng.

[8] . Đề tŕ: phương pháp của vị thầy trong nhà Thiền dùng để hướng dẫn học tṛ, tức là nhằm tiếp độ hàng hậu học, thầy bèn dùng những cử chỉ, hành vi, lời nói để phá sạch những kiến giải, Ngă Kiến sẵn có của tṛ, chỉ cho đường nẻo hướng thượng.

[9] . Áo ca-sa của Tăng gồm những mảnh vải khâu dính lại, nên gọi là “nạp y” (áo chằm), do đó, tăng nhân thường xưng là nạp tử, nạp tăng hay lăo nạp.

[10] . Ca Lâu La (Garuda), đôi khi c̣n phiên là Ca Lưu La., Già Lâu La, Yết Lộ Trà, dịch nghĩa là Thực Thổ Bi Khổ Thanh (ăn vào, phát ra tiếng buồn bă đau khổ), hoặc dịch là Kim Xí Điểu (chim cánh vàng), hoặc Diệu Thúy Điểu. Đây là một loại giống như chim đại bàng cực to, thần thoại Ấn Độ thường kể thần Tỳ Thấp Nô (Vishnu) hay cưỡi chim này. Theo kinh Trường A Hàm, quyển 19, Ca Lâu La có bốn loại: Thấp sanh, thai sanh, noăn sanh, hóa sanh. Loài noăn sanh sẽ ăn loại rồng sanh ra từ trứng, loài thai sanh ăn loại rồng sanh ra bằng thai v.v… Kinh Quán Phật Tam Muội Hải, quyển 1, cho biết: Do nghiệp báo chim này bay khắp Diêm Phù Đề, trong một ngày đêm phải ăn một long vương và năm trăm rồng nhỏ. Sải cánh của loài chim này rất lớn có thể quạt mạnh đến tách đôi nước biển cả. Các chùa Miên, Lào, Thái, Miến thường tạc Garuda với h́nh dạng đầu chim, h́nh người, có hai cánh to đứng nâng đỡ mái chùa (chữ Garuda bị biến thể theo âm Thái thành Krut). Garuda cũng được dùng làm biểu tượng cho hoàng gia Thái Lan.