(Luận về Phật giáo
lấy Hiếu làm gốc)
Hiếu
là đạo không ǵ lớn hơn được nữa;
bao trùm trời đất, uốn nắn thánh, đào
tạo hiền, tiên vương tu đạo hiếu nên
thành tựu đức tột cùng, Như Lai nương theo đạo này chứng được
đạo Giác. V́ thế, Hiếu kinh[1]
đạo Nho có câu: “Ôi! Hiếu là kinh của trời, là nghĩa của
đất, là hạnh của dân vậy!” Giới
kinh nhà Phật dạy: “Hiếu
thuận phụ mẫu, sư Tăng, Tam Bảo. Hiếu thuận là pháp chí đạo. Hiếu gọi là Giới, cũng gọi là
ngăn dứt. Thế gian hay xuất thế gian không
ǵ chẳng lấy Hiếu làm gốc”. Hiềm rằng
thế tục phàm t́nh chỉ biết hành đạo
Hiếu nơi mặt h́nh tích rơ ràng, chẳng biết
chỗ cùng cực tận hiếu.
Hễ cứ thấy hàng Thích Tử xuất
gia, liền dựa theo ngay ư kiến
ức đoán của chính ḿnh, mặc t́nh hủy báng: “Chẳng hiếu thuận
phụ mẫu, chẳng khác ǵ phường đăng tử
nghịch đồ!” Chẳng biết pháp
thế gian trọng hiếu mà pháp xuất thế gian
cũng không hề không trọng hiếu.
Bởi
lẽ, Hiếu như thế gian nói th́ có h́nh tích để
tuân theo, c̣n đạo Hiếu của họ
Thích th́ giản lược nơi bề ngoài, mà chuyên chú
dốc sức nơi cái gốc. Có h́nh tích để tuân theo th́ rơ ràng dễ thấy, c̣n chuyên chú
dụng sức nơi gốc th́ kín đáo, khó thể
tỏ rơ. V́ sao nói như vậy? Nho th́
hầu hạ, phụng dưỡng cho cha mẹ yên thân, coi
đó là Hiếu. Lập thân, hành đạo, dương
danh hậu thế khiến cho cha mẹ nở mày nở
mặt th́ gọi là đại hiếu. Luận
đến cùng cực th́ phàm là Ngũ Thường[2],
Bách Hạnh, không ǵ chẳng nhằm phát huy đạo
Hiếu. V́ thế, thiên Tế Nghi của sách Lễ Kư
có câu: “Chặt một cái cây, giết
một con thú chẳng đúng thời th́ chẳng phải
là hiếu”. V́ thế mới nói: “Đạo Hiếu Đễ thông thấu thần minh, sáng khắp bốn biển vậy”.
Luận về Hiếu đến mức như vậy, có
thể nói là tột cùng, chí lư vậy, không c̣n thêm ǵ
được nữa! Nhưng hiếu như vậy rơ
ràng thuộc trong ṿng tai mắt, con
người ta dễ thấy.
Chỉ có
hàng Thích Tử chúng ta lấy chuyện thành đạo
lợi sanh làm cách báo ân tối
thượng. Không chỉ báo đáp cha mẹ
nhiều đời, mà c̣n báo đáp hết thảy cha
mẹ trong tứ sanh lục đạo từ vô
lượng kiếp. Không những hiếu
kính cha mẹ khi c̣n sống mà c̣n độ thoát linh thức
của cha mẹ, khiến cho họ vĩnh viễn thoát
khỏi khổ luân, thường trụ Chánh Giác. V́
vậy, mới nói: “Đạo
Hiếu của họ Thích ẩn kín, khó thể hiểu rơ
vậy!”
Tuy
vậy, đạo Hiếu của Nho lấy chuyện
phụng dưỡng cha mẹ làm đầu, nếu
đệ tử Phật từ biệt cha mẹ xuất
gia th́ có phải là chẳng đoái hoài công cha mẹ nuôi
dưỡng hay chăng? Đức Phật chế
định: Xuất gia phải bẩm cùng cha mẹ. Nếu có anh em, con cháu, có thể nhờ cậy th́
mới được bẩm thưa cùng cha mẹ, cha
mẹ bằng ḷng mới được xuất gia. Nếu không, chẳng cho xuống tóc. Có người xuất gia rồi, nếu anh em
gặp chuyện, cha mẹ không nhờ cậy ai
được, cũng được phép xẻ bớt
cơm áo để giúp cho cha mẹ.
Do
vậy, ngài Trường Lô c̣n nêu vết thơm
phụng dưỡng mẹ (thiền sư Trường Lô
Tông Trách đời Tống, người xứ Tương
Dương, lúc nhỏ mồ côi. Bà mẹ ngài họ
Trần nuôi nhờ con trong nhà người cậu. Đến lớn, Sư thông thạo bác lăm kinh
điển thế tục. Năm hai
mươi chín tuổi xuất gia, hiểu sâu xa tông
yếu. Sau trụ tại chùa Trường Lô, đón
mẹ về ở nơi thất phía Đông phương
trượng, khuyên mẹ niệm Phật cầu sanh
Tịnh Độ. Bảy năm sau, mẹ niệm
Phật qua đời. Chuyện này chép trong
Tịnh Độ Thánh Hiền Lục), ngài Đạo Phi
có chuyện lạ “chôn cha”
(ngài Đạo Phi là tông thất nhà Đường,
người Trường An. Sanh ra mới vừa
đầy năm, cha v́ vương sự bỏ ḿnh. Ngài xuất gia năm bảy tuổi. Đến năm mười chín, đời
loạn gạo mắc, bèn cơng mẹ vào Hoa Sơn, tự
nhịn ăn, khất thực nuôi mẹ. Năm sau, ngài t́m đến chiến trường
Hoắc Sơn, thâu thập xương trắng, kiền
thành tụng kinh chú, mong t́m được xương cha.
Vài ngày sau, xương cha từ giữa
đống xương trồi lên, tiến thẳng
đến trước mặt ngài Đạo Phi. Ngài bèn chôn vùi những bộ xương khác, mang
xương cha đem về chôn cất. Chuyện
này được chép trong Tống Cao Tăng Truyện).
V́ thế kinh nói: “Công
đức cúng dường cha mẹ bằng với công
đức cúng dường bậc Nhất Sanh Bổ
Xứ Bồ Tát”.
Cha mẹ
c̣n sống th́ khéo léo khuyên dụ, khiến cho cha mẹ tŕ
trai niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Cha mẹ
đă khuất th́ đem công đức tu tŕ đọc
tụng của chính ḿnh thường chí thành hồi
hướng cho cha mẹ, khiến họ vĩnh viễn
thoát khỏi Ngũ Trược, từ biệt măi măi sáu
nẻo, chứng Vô Sanh Nhẫn, đạt địa
vị Bất Thoái. Đến tột cùng
đời vị lai độ thoát chúng sanh, khiến cho
cả ḿnh lẫn người đều thành giác
đạo. Như vậy là chẳng
giống với đại hiếu của thế gian.
Luận đến cùng cực, toàn bộ
Lục Độ vạn hạnh, không ǵ chẳng nhằm
mở rộng đạo Hiếu. Do vậy, trong
Phạm Vơng Giới Kinh, nhất nhất đều dạy
nên sanh tâm từ bi, tâm hiếu thuận. Lại nói: “Nếu là đệ tử
Phật hăy nên dùng tâm từ bi thực hiện chuyện
phóng sanh v́ hết thảy người nam đều là cha
ta, hết thảy nữ nhân đều là mẹ ta. Đời đời không lúc nào ta chẳng
được họ sanh ra. Do vậy, lục
đạo chúng sanh đều là cha mẹ ta. Giết chúng
sanh ăn thịt chính là giết cha
mẹ”.
Do vậy, hết thảy những ǵ ḿnh tu tŕ
đều đem hồi hướng cho khắp pháp
giới chúng sanh chính là nghĩ đến tột cùng
đời vị lai, hiếu với trọn khắp các
hữu t́nh. Nếu đem đạo Hiếu thế gian ra
so sánh th́ về mặt h́nh tích cũng chẳng thiếu
khuyết, mà về mặt gốc lại càng dư
thừa! Tiếc cho những kẻ không thấy
được lư này, nếu không bảo là nói dối, hoang
đường th́ cũng cho là mờ mịt! Nào biết theo chiều dọc th́ suốt ba đời,
theo chiều ngang th́ trọn khắp mười
phương, Phật nhăn thấy trọn vẹn như nh́n
vào ḷng bàn tay vậy!
[1] . Hiếu Kinh có thuyết nói do chính Khổng Tử trước tác, có thuyết nói do Tăng Tử. Tổng Mục của Tứ Khố Toàn Thư ngả về thuyết cho rằng Hiếu Kinh do Tăng Tử hoặc một trong bảy mươi người học tṛ kiệt xuất của Khổng Tử biên soạn. Sách được h́nh thành vào thời Tần Hán. Đây là tác phẩm được chú giải mạnh mẽ nhất ngoài Tứ Thư. Bản Hiếu Kinh được lưu hành hiện thời do chính Đường Huyền Tông (Lư Long Cơ) chú giải. Toàn sách chia thành 18 chương, bàn luận xoay quanh chữ Hiếu. Sách này được xếp vào Thập Tam Kinh, tức 13 tác phẩm bắt buộc phải học của người theo đạo Nho.
[2] . Ngũ Thường: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín.