(Đính kèm lá thư thứ
hai của bà ta)
1)
Nhận được thư khôn
ngăn than thở cảm khái. Cớ sao bà mù quáng đơm đặt, nói Nhiên Đăng
Cổ Phật[1]
giáng sanh trong nhà bà, chưa đầy năm đă chết
non? Chư Phật sanh tử đă xong, quyết chẳng có
lẽ nào thị hiện giáng sanh rồi lại chết
yểu! Nếu v́ độ chúng sanh, đức Phật bèn
thừa nguyện thị hiện giáng sanh, quả thật
có chuyện ấy, nhưng đă thị hiện giáng sanh,
cũng chắc chắn chẳng nói ta là vị Phật nào
đó, đến khi độ sanh xong xuôi, sắp thị
hiện Niết Bàn, mới tỏ rơ gốc tích. Chắc
chắn không có chuyện thị hiện giáng sanh, rồi
chẳng làm Phật sự lớn lao
đă chết yểu ngay! Thanh Văn Sơ Quả đă
đoạn Kiến Hoặc, vẫn c̣n Tư Hoặc
chưa đoạn nên phải bảy lần sanh lên
trời, bảy lần sanh vào nhân gian mới đoạn
được Tư Hoặc, chứng Tứ Quả.
Nhị Quả th́ một lần sanh lên trời, một
lần sanh trở lại trong nhân gian rồi chứng
Tứ Quả. (Bậc Sơ Quả, Nhị Quả sanh
trong nhân gian tuổi thọ đều dài, ngắn bất
định, hoặc mấy tháng, mấy năm, mấy
chục năm, chính là theo nghiệp thọ sanh vậy). Tam
Quả do đă đoạn sạch Tư Hoặc trong
Dục Giới, vẫn phải ở trong Ngũ Bất
Hoàn Thiên của Sắc Giới trải qua nhiều kiếp
mới có thể đoạn sạch Tư Hoặc, chứng
Tứ Quả. Tứ Quả đoạn sạch Kiến
Hoặc và Tư Hoặc, trọn chẳng c̣n sanh duyên trong
tam giới. Nếu phát hoằng thệ nguyện thị
hiện giáng sanh th́ có thể [giáng sanh trong tam giới],
kẻ theo nghiệp thọ sanh chẳng
thể sánh bằng [những vị này]! Bà là nghiệp
lực phàm phu bịa chuyện đồn đại này, vu
báng cổ Phật, muốn được những kẻ
mù mắt trong thế gian cho rằng bà là cha mẹ của
Phật. Nếu nói với kẻ thông hiểu Phật pháp,
nhất định họ sẽ quở bà là dùng lời
lẽ tà quái lừa dối mọi người! Dẫu cho
người trong cuộc không rảnh rang hỏi
đến, há cũng chẳng sợ thiên lôi giết bà hay
sao? Bà c̣n đến các nơi t́m người họa thơ
của bà. Nếu chẳng phải là ngoại đạo
không phân biệt được tà hay chánh và là kẻ si
chẳng biết thơm hay thối, ai
chịu chấp nhận lời nói ấy của bà là
đúng? Bà hăy nên thống thiết sửa đổi
lỗi trước, phàm đă gởi thư cho những ai
đều hăy nên gởi thư cho họ bày tỏ thẳng
thắn cái tội ấy, buồn đau cầu sám hối,
ngơ hầu chẳng đến nỗi đem phàm lạm
thánh, vĩnh viễn đọa vào địa ngục A
Tỳ, chịu các nỗi khổ cùng cực, vĩnh
viễn không có ngày ra! Nếu chẳng coi lời Quang là
đúng th́ bà là quyến thuộc của ma, chứ không
phải là đệ tử của tôi! Sao bà lại khổ
sở mù quáng bịa chuyện, bị người sáng
mắt thóa mạ, bị thiên địa quỷ thần tru
diệt vậy? Do mong mỏi bà biết lỗi liền
sửa đổi, hối lỗi; nếu không, khi khổ
báo xảy đến, có hối cũng chẳng kịp; v́
thế, tôi không thể trọn hết bổn phận, nói
thẳng, quở trách gay gắt. Nếu bà chẳng nghe,
chẳng liên can ǵ đến tôi nữa!
Kính vâng lời dạy từ bi,
được nhận lời quở trách nghiêm khắc,
cung kính đọc đi đọc lại, cảm kích
lẫn hổ thẹn chen lẫn.
Đứa con yêu quư bị chết yểu, tâm chua xót muôn
phần, nghiệp chướng sâu nặng, làm thơ nói
động đến cổ Phật, khơi ra tội
lỗi thật nhiều! Kiền thành sám
hối, thống thiết sửa đổi lỗi
trước. Phàm phu tục tử bẩm tánh ngu độn, lỗ măng, hoàn toàn cậy vào
ân sư khai thị, sáng tối suy nghĩ cặn kẽ,
tiền tŕnh nguy hiểm, thật đáng sợ quá! Do
nghĩ đến điều này, kính dâng thư
bày tỏ, cảm tạ, cúi mong ân sư rủ ḷng xót
thương như biển rộng. Nghiệp căn đă
gieo từ trước, pháp duyên thiếu sót đă lâu,
dốc ḷng cầu xin thầy thường ban pháp hối
(sự dạy dỗ về mặt pháp), ngơ hầu trong
chốn lưới trần âm u, được nhờ
đuốc huệ soi sáng thông suốt; trong biển khổ
mịt mù, được nhờ thuyền từ phổ
độ.
2)
Hôm trước nhận
được thư biết bà đă
nhận lỗi, xót xa xin sám hối, vốn muốn trả
lời ngay, nhưng không rảnh rỗi, nên chần chừ
đến nay. Con người sống trong thế gian,
phải giữ bổn phận. Y phục, đồ
vật, danh xưng đều chẳng nên quá tôn quư, chớ
v́ [muốn] đẹp mặt mà xưng hô bừa băi. Ví
như thứ dân xưng bừa là đế vương,
tội ắt diệt tộc, chẳng đáng sợ ư?
Bà đem đứa con chưa đầy năm bị
chết yểu, xưng bừa là Nhiên Đăng Cổ
Phật thị hiện, muốn được cái mỹ
danh là cha mẹ của Phật, chẳng biết cái tội
khinh nhờn, miệt thị cổ Phật cho đến
hết đời vị lai cũng chẳng có ngày thoát
khỏi A Tỳ địa ngục! Nếu Quang không nói
toạc ra, bà vẫn cứ muốn đem bài thơ đă
soạn gởi cho khắp mọi người trong
nước, ngơ hầu kẻ vô tri cũng bắt
chước dẫm theo vết chân của bà th́ những
kẻ gian tà “ngư ông đắc lợi” đều coi
đứa con chết yểu là Cổ Phật Thị
Hiện. Thoạt đầu chỉ mong được
kẻ vô tri khen ngợi, kế đến là dựng tháp,
xây miếu, tom góp của cải để làm giàu. Kế
đến là những kẻ gian tà cùng nhau tụ tập,
bèn lập giáo môn, lừa dối, gạt gẫm kẻ ngu tục. Lâu ngày dấu vết xấu xa
lộ ra khiến cho mọi người cùng chịu phép
nước [trừng phạt], nhưng trong số những
kẻ gian tà đương thời, có những kẻ
ẩn nấp giấu ḿnh chưa bị tru diệt, lâu ngày
lại dấy lên, giống như bọn Bạch Liên Giáo219
cứ lây nhây không ngừng, là mối hại cho thế gian.
Kể từ sau đó, bọn giáo đồ chỉ
đổi danh xưng, chẳng đổi bản chất.
Lũ ngoại đạo ấy đều chuộng bí
mật, dẫu là cha con, chồng vợ vẫn đều
chẳng bảo cho biết. Do điều bí mật ấy
cố kết trong tâm kẻ ngu nên
bất cứ vị thiện tri thức nào khai thị,
chỉ dạy, họ đều chẳng chịu tin theo,
như con chó coi phẩn là thơm, không ăn không
được! Thường nói với người khác:
Thầy ta là vị Phật nọ, vị Tổ Sư kia
xuất thế, ta là vị Phật nọ, vị Tổ
Sư kia xuất thế, mù quáng bịa chuyện để
mong được danh văn, lợi dưỡng,
chẳng tính đến chuyện Phật pháp bị hoại
loạn, khiến cho chúng sanh bị nghi ngờ, lầm
lạc, sống chịu phép nước, chết
đọa ác đạo từ kiếp này sang kiếp khác,
không có lúc thoát ra! Mối tệ ấy lưu truyền
chẳng thể kể xiết được!
Hành vi của bà nếu
chẳng thống thiết sửa đổi ắt sẽ
giống như bọn chúng, chẳng đáng sợ ư?
Hăy nên in một tờ thư sửa
lỗi sám hối, phàm trước kia đă gởi bài
thơ đó cho những ai, nay đều gởi [tờ
thư ấy] ngơ hầu họ biết tường
tận. Cái huy hiệu có ba chữ Niết Bàn Thất hăy
đốt đi, những chuyện đă lầm lạc
tính làm trước kia thảy đều
dẹp hết. Dựa theo những điều đă nói
trong Một Bức Thư Gởi Khắp, sanh tín, phát
nguyện, niệm Phật cầu sanh Tây Phương.
Nếu thật sự chịu thật tâm bày tỏ sám
hối, chắc chắn sẽ được nghiệp
tiêu trí rạng, chướng tận, phước tăng,
cậy vào Phật từ lực văng sanh Tây Phương,
lợi ích ấy há diễn tả được chăng? Quang đă v́ bà có thể nói là tột bực không
ǵ hơn được nữa, tôi đă trọn hết
trách nhiệm, bổn phận của tôi. Nếu bà
đọc kĩ, nghĩ chín, ắt sẽ lâm vào t́nh
cảnh lệ ứa đầm đ́a không thể cầm
được!
[1] . Nhiên Đăng Phật (Dīpamkara): Đôi khi c̣n được dịch âm là Đề Ḥa Kiệt La, hoặc Đề Hoàn Kiệt. Danh hiệu đức Phật này c̣n được dịch nghĩa thành Phổ Quang Phật, Định Quang Phật. Ngài là vị Phật trong quá khứ từng thọ kư cho đức Phật Thích Ca. Theo Tu Hành Bản Khởi Kinh, quyển thượng, thánh vương nước Đề Ḥa Vệ (Dīpavatī) tên là Đăng Thạnh, lúc lâm chung truyền ngôi cho thái tử Định Quang. Thái Tử biết cơi đời vô thường bèn truyền ngôi cho em trai rồi xuất gia làm sa-môn, sau thành Phật Quả. Lúc ấy, có đứa hầu trai của một vị Phạm Chí gặp được đức Phật Nhiên Đăng đang đi du hóa, bèn mua hoa cúng Phật, Phật thọ kư cho đứa hầu trai sẽ thành Phật trong tương lai, hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật.