(Bàn
về chuyện phải dốc kiệt ḷng thành mới
đạt được lợi ích thật sự)
Ngạn
ngữ có câu: “Chẳng hạ
ḿnh thật sâu trước người khác, chẳng
đạt được lẽ thật”. Lời này tuy
nhỏ, nhưng có thể ví cho điều lớn lao. Phàm
trong thế gian, lớn như kinh thuật[1],
văn chương; nhỏ như một tài, một
nghệ, nếu muốn thâm nhập diệu nghĩa
đến mức thần t́nh, muốn được
cốt tủy nơi đạo truyền tân, tài nghệ
xuất chúng, danh truyền cổ kim, nếu chẳng chuyên
tâm dốc ư, kiệt ḷng thành, tận ḷng kính, sẽ
chẳng thể nào đạt được! V́ vậy,
sách Quản Tử[2]
có câu: “Hăy suy nghĩ đi, hăy
suy nghĩ đi, lại suy nghĩ chín chắn đi.
Nghĩ không ra th́ quỷ thần sẽ tương thông”.
Không phải là quỷ thần tương thông mà chính là do
ḷng tinh thành đến cùng cực vậy!
Đời
Hán, Ngụy Chiêu gặp Quách Lâm Tông, cho rằng thầy
dạy kinh sách dễ gặp, thầy dạy làm
người khó gặp, bèn xin theo học, hầu hạ,
quét tước. Lâm Tông thường hay bị bệnh, sai
Chiêu nấu cháo. Cháo nấu xong, dâng lên, Lâm Tông mắng
ầm ĩ: “V́ người trên
nấu cháo chẳng để ḷng kính cẩn làm, nên không
ăn được!” Chiêu lại nấu cháo khác, dâng
lên, lại mắng như thế ba lượt, mặt ông
Chiêu vẫn không đổi sắc. Lâm Tông nói: “Thoạt đầu ta thấy
được mặt ông, nay ta mới biết
được tâm ông”. Đời Tống, Dương
Thời và Du Thố thờ [Tŕnh] Y Xuyên làm thầy. Một
bữa học hỏi đă lâu, Y Xuyên chợt nhắm
mắt vờ ngủ, hai người học tṛ
đứng hầu chẳng dám bỏ đi. Lúc lâu sau, Y
Xuyên chợt tỉnh giấc nói: “Các
tṛ vẫn c̣n ở đây à? Về nghỉ đi!” Bèn lui
ra, ngoài cửa tuyết xuống đă dầy hơn cả
thước. Trương Cửu Thành, mười bốn
tuổi sang chơi Quần Tường, suốt ngày
đóng cửa, không có chuyện ǵ th́ chẳng vượt
ra ngoài giới hạn ấy. Người học tṛ ở
bên cạnh xoi lỗ nh́n sang, thấy chàng ta ôm gối
quỳ sát, đối trước thi thư như
đối diện thần minh, bèn kính phục như tṛ
đối với thầy. Bốn vị trên đây,
những ǵ họ học chính là đạo “minh đức tân dân” của thế gian, là pháp “tu tề trị b́nh”, mà
họ c̣n tôn sư trọng đạo chí thành như
thế, cho nên học được thành, đức
được lập, khiến cho khi c̣n sống cũng
như sau khi đă khuất, người đời
ngưỡng mộ không thôi! C̣n như Dịch Thu dạy
cờ vây, cũng chỉ do chuyên tâm dốc chí cho nên
giỏi giang, như [ông lăo] khom lưng đón ve[3],
do dụng chí chẳng phân nên đạt được
như vậy.
Do
vậy, thấy rằng: Sự học không phân lớn hay
nhỏ, đều phải lấy thành kính làm chủ.
Huống nữa, Như Lai trong bao kiếp xưa, muốn
khiến cho chúng sanh đồng thành giác đạo, nếu
không gieo duyên, sẽ không do đâu đắc độ! Do
vậy, Phật bèn hiện đủ mọi sắc thân
hiện h́nh trong sáu nẻo, đủ mọi phương
tiện tùy cơ lợi vật, mở ra đủ cả
ngàn môn, đồng quy một đạo. Kẻ thiện
căn chưa gieo, chưa chín muồi, chưa giải thoát,
Phật bèn làm cho kẻ ấy gieo, chín muồi, giải
thoát. Nên dùng thân nào để độ được, bèn
hiện thân ấy để thuyết pháp. Mây bủa
cửa Từ, sóng trào biển Hạnh. Lục Độ
đều tu, Tứ Nhiếp cùng lợi ích trọn
khắp. Đấy là bố thí, trong ngoài đều
xả, nghĩa là: quốc thành, vợ con, đầu mắt,
tủy năo, thịt trên thân, chân tay đều hoan hỷ thí
cho. V́ vậy, kinh Pháp Hoa nói: “Xem
trong tam thiên đại thiên thế giới, không có chỗ
nào chừng bằng hạt cải mà chẳng phải là
chỗ Bồ Tát xả thân mạng”.
Như Lai v́ chúng sanh nên trải qua ba
đại A Tăng Kỳ kiếp rộng hành Lục
Độ, để kết khắp duyên chủng.
Đợi đến lúc căn cơ chín muồi, rồi
Ngài mới thị hiện thành Chánh Giác, hoằng khai pháp
hội, phổ ứng quần cơ. Với bậc
thượng căn bèn hiển thị Thật Tướng
khiến họ sanh lên được bờ đạo.
Với trung hạ căn bèn khéo léo tiếp dẫn, un
đúc dần dần, Hiển, Mật, Quyền, Thật,
Thiên, Viên, Đốn, Tiệm, tùy theo căn cơ xếp
đặt, nên dùng pháp nào bèn dùng pháp đó. Tuy có ba thừa,
nhưng đạo vốn không hai. V́ Thật lập
Quyền, Quyền là Quyền đối với Thật;
khai Quyền hiển Thật, Thật là Thật đối
với Quyền. Thuận theo căn cơ, khéo léo khuyến
dụ dần dần, khiến cho cả lư lẫn cơ
đều khế hợp th́ giải cùng hạnh mới
được viên măn. Dù người học chuyên chú
Đại Thừa, cũng chẳng được khinh
miệt, vứt bỏ Tiểu Thừa, bởi Tiểu
Thừa chính là pháp được lập ra để
[người học] tiến nhập Đại Thừa,
là diệu dụng độ sanh của Như Lai, quả
thật là phương kế rộng lớn để cho
hàng hạ căn thoát khổ.
V́
thế, kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: “Người học đạo
Phật th́ đối với những ǵ Phật đă nói
đều phải nên tin thuận. Ví như ăn mật,
dù ở chính giữa hay chung quanh đều ngọt ngào,
kinh của ta cũng giống như thế. Biển cả tuy có chỗ
cạn, chỗ sâu, nhưng nước vốn chẳng hai
vị”. Phàm những ǵ thuộc về kinh Phật
đều phải nhất loạt tôn kính, như mạng
lệnh của Luân Vương dẫu đủ mọi
chuyện khác nhau, nhưng đều cùng từ vua sắc
truyền. Người viên đốn lănh thọ pháp th́
không pháp nào chẳng viên. Những lời cư xử trong
cơi đời, những nghề nghiệp để nuôi
sống v.v… đều thuận theo chánh pháp, huống chi
những pháp như Sanh Diệt, Vô Sanh, Tứ Đế,
Thập Nhị Nhân Duyên v.v… do chính kim khẩu Như Lai nói
ra. Đến khi một kỳ sự nghiệp của
Như Lai đă xong, Phật bèn thị hiện diệt độ.
Các đại đệ tử Ca Diếp, A Nan… kết
tập pháp tạng lưu thông khắp pháp giới. Một
ngàn năm sau, giáo pháp truyền sang cơi này. Cao tăng hai cơi,
sang Đông, qua Tây, phiên dịch, lưu truyền kinh
Phật, chẳng tiếc thân mạng. Đọc truyện
các vị Pháp Hiển, Đàm Vô Kiệt[4],
Huyền Trang v.v… thấy đường lối hiểm
trở, vô cùng gian nan, khó nhọc, bất giác nghẹn ngào,
ứa lệ không sao thôi được.
Kinh
dạy: “Thân người khó
được, Phật pháp khó được nghe”.
Nếu không có nhân duyên kiếp xưa th́ danh hiệu kinh
Phật c̣n chẳng được nghe, huống chi là
được thọ tŕ, đọc tụng, tu nhân,
chứng quả ư? Những ǵ đức Như Lai
đă nói đều y theo lư vốn sẵn có trong tâm chúng
sanh, ngoài tâm tánh trọn chẳng có một pháp nào để
đạt được cả. Chỉ v́ chúng sanh đang
mê nên chẳng thể hiểu rơ, trong Chân Như Thật
Tướng bèn huyễn sanh vọng tưởng, chấp
trước. Do vậy, khởi tham - sân - si, tạo
giết - trộm - dâm, mê trí huệ nên thành phiền năo, ngay
nơi thường trụ bèn thành sanh diệt, trải
trần điểm kiếp, không thể thoát
được. May gặp được những kinh
Đại Thừa hiển - mật do đức Như Lai
đă nói, mới biết hạt châu vẫn y nguyên nơi
chéo áo, Phật tánh vẫn tồn tại. Tự coi ḿnh là
khách, là kẻ hạ tiện, nhưng vốn thật là con
ông trưởng giả. Trời - người sáu nẻo
chẳng phải là chỗ ḿnh ở; Thật Báo, Tịch
Quang mới là quê nhà sẵn có. Nghĩ lại từ vô
thủy đến bây giờ, chưa nghe lời Phật
nên dù sẵn có tâm tánh này, vô cớ bị luân hồi oan
uổng! Thật là đáng đau đớn khóc than,
tiếng rền đại thiên, tim từng miếng xé
toạc, ruột từng tấc đứt ĺa. Ân ấy,
đức ấy quả c̣n hơn trời đất, cha
mẹ gấp trăm ngàn vạn lần. Dẫu nghiền
thân nát xương, há có thể báo đền
được! Chỉ có y theo lời dạy tu hành, tự
hành, hóa độ người khác th́ cỏ Xuân mới
đền đáp được ân nắng soi chút phần,
hoa quỳ mùa Hạ hướng theo ánh mặt trời mà
thôi. Nhưng hiện thời Tăng - tục mở xem kinh
sách, trọn chẳng thành kính tí ti nào. Đủ mọi
điều khinh nhờn, khó thể nêu trọn; nhưng
tập thành thói đă lâu, ai nấy coi là thường, h́nh
tích khinh nhờn đó không nỡ nêu đủ. Xem pháp ngôn
của Như Lai giống như giấy cũ rách nát!
Đừng nói chi những kẻ không biết chỉ thú nên
trọn chẳng được lợi ích; ngay cả
những người biết thật nghĩa sâu xa cũng
chỉ là tam-muội đằng miệng, tỏa sáng ngoài
mặt. Như đang đói kể chuyện ăn, như
nghèo cùng đếm của báu, dù có công nghiên cứu,
nhưng trọn chẳng được lợi ích thật
chứng. Huống chi cái tội khinh nhờn quả
thật ngập trời, thời gian thọ khổ há nào
phải chỉ hết kiếp? Tuy là nhân lành, nhưng
lại chuốc lấy quả ác. Dẫu thành cái nhân
đắc độ cho tương lai, khó tránh khỏi
nhiều kiếp chịu đủ mọi bề khổ
sở.
Dùng cái tâm
ôm nỗi thảm thương dám bày tỏ lời quê mùa,
mong những ai vâng làm theo lời Phật chỉ
được lợi, không bị tổn hại. Kinh Kim
Cang dạy: “Nếu kinh
điển này ở đâu, chỗ ấy có Phật,
phải như đệ tử tôn trọng [Phật]”.
Lại dạy: “Nơi nơi,
chốn chốn, nếu có kinh này th́ hết thảy thế
gian trời, người, A Tu La đều phải nên cúng
dường. Phải biết chỗ ấy chính là tháp,
đều nên cung kính, làm lễ, đi nhiễu, dùng các
hương hoa rải lên nơi đó”. V́ sao lại
dạy như thế? Do hết thảy chư Phật và
pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của hết
thảy chư Phật đều từ kinh này mà ra; các kinh
Đại Thừa đâu đâu cũng dạy con
người phải cung kính kinh điển, chứ không
phải chỉ nói một lần rồi thôi! Ấy là v́ các
kinh Đại Thừa chính là mẹ của chư Phật,
là thầy của Bồ Tát, là Pháp Thân xá-lợi của tam
thế Như Lai, là thuyền từ thoát khổ của
chúng sanh trong chín giới. Dù cao đăng Phật quả
vẫn c̣n phải kính pháp, ngơ hầu báo đáp đến
tận gốc, chẳng quên đại ân. V́ thế, kinh
Niết Bàn dạy: “Pháp là
mẹ của Phật, Phật từ Pháp sanh”.
Tam
thế Như Lai đều cúng dường Pháp, huống
ǵ hạng phàm phu sát đất, toàn thân đầy
nghiệp lực, như tù nhân phạm tội nặng
bị giam cầm lâu ngày trong lao ngục, không cách ǵ thoát ra
được! May sao nhờ vào thiện căn đời
trước, được xem kinh Phật, như tù nhân
nhận được lệnh tha, mừng rỡ vô
ngần! Do vậy, bèn nương theo kinh pháp vái chào tam
giới măi măi, thoát khỏi lao ngục sanh tử vĩnh
viễn, đích thân chứng Tam Thân, về thẳng quê nhà
Niết Bàn. Vô biên lợi ích do nghe kinh bèn đạt
được, há có nên dựa theo tri kiến cuồng
vọng chẳng giữ ḷng kính sợ, giống như nhà
Nho đọc sách trong cơi tục, buông tuồng khinh nhờn
ư? Đă đọc kinh Phật, sao không nương theo
những ǵ kinh Phật dạy mà cung kính, tôn trọng? Đă
khinh nhờn Phật pháp, há có thể đạt
được tất cả những lợi ích chân
thật nơi Phật pháp ư? Nếu có thể tạm
dứt những kiến giải cuồng vọng, đêm
thanh tự nghĩ, tâm thần ắt sẽ kinh hoàng,
thẹn thùng, nước mắt ràn rụa, buồn cho ngày
trước vô tri, thề suốt đời sẽ dốc
kiệt ḷng thành. Từ ấy, tâm ư nghiêm túc, cung kính, thân
miệng thanh tịnh, vĩnh viễn dứt sạch tâm
thái xấu xa thô lậu, luôn y theo khuôn phép thánh hiền
của kinh luận.
Nếu
làm được như thế ắt sẽ ở trong
biển cả Phật pháp, tùy phần, tùy sức
đạt được lợi ích. Như Tu La,
hương tượng và các loài muỗi ṃng uống
nước biển cả, [loài nào loài nấy] đều
được no bụng. Lại như một trận
mưa thấm ướt khắp, cây cỏ đều
tươi tốt. Như thế th́ cái công thọ tŕ
của chính ḿnh mới chẳng uổng phí, mà tâm Như Lai
giảng kinh, tâm hoằng pháp của chư Tổ cũng
được vui đẹp, an ủi, sung sướng
phần nào! Nay đem những sự tích lợi ích do cung
kính kinh điển của chư cổ đức chép
đại lược vài điều, ngơ hầu những
người chân tu thật hành có cái để noi theo:
1) Vị Tăng tên Đức Viên
đời Tề, không biết thuộc tộc họ nào,
người xứ Thiên Thủy, thường lấy kinh
Hoa Nghiêm làm sự nghiệp, thọ tŕ, đọc tụng
nắm vững chỗ yếu diệu đến cùng
cực. Sư sửa dọn một khu vườn
sạch, trồng toàn cây cốc chử[5] và
trồng cỏ thơm, trồng xen lẫn các loại hoa
tươi. Mỗi lần vào vườn, đều
tắm rửa, thân mặc áo sạch. Tưới bằng
nước thơm, cây dó mọc được ba năm,
mùi thơm sực nức. Lại tạo riêng tịnh
thất, dùng chất bùn thơm tô vách, trát đất,
kết đàn, bày đồ vật tinh sạch, tắm
gội. Nhà tắm có để sẵn áo dành riêng cho khi
đi vệ sinh. Thợ đều phải trai giới, ra
vào đều phải thay áo, súc miệng cho thơm tho.
Lột vỏ cây dó, ngâm trong nước trầm cho sạch
để làm giấy. Cả năm mới làm xong. Bèn
đắp riêng một cái nền sạch, lại cất
một ngôi thất mới. [Từ đầu] cho
đến khi bắc kèo, lợp ngói, tắm rửa
đều dùng nước thơm, mỗi việc
đều nghiêm khiết. Trong nhà, đặt một ṭa
vuông bằng gỗ bách khảm ngà, chung quanh xếp
hương hoa, phía trên treo lọng báu, treo các thứ
ngọc có tiếng thanh tao, kết xen lẫn thành tua rủ
xuống chung quanh. Dùng gỗ bạch đàn và tử
trầm (gỗ trầm tía) làm án kinh và quản bút.
Người chép kinh hằng ngày giữ trai giới, tắm
gội bằng nước thơm ba lần, đội măo
hoa, mặc áo sạch, chưng diện như người
cơi trời.
Lúc vào kinh
thất, bèn đốt hương hai bên đường,
có người xướng tụng dẫn đường
đằng trước. Đức Viên cũng ăn
mặc theo h́nh thức nghiêm tịnh như thế, cầm
lư hương cung kính dẫn đường. Rải
hoa cúng dường rồi mới biên chép. Đức Viên
hồ quỳ[6],
vận tưởng, mắt nh́n chăm chú, dốc ḷng.
Vừa chép được mấy hàng, mỗi chữ
đều phóng quang, chiếu khắp cả viện,
mọi người đều thấy, không ai chẳng bi
cảm, một lúc lâu sau mới hết. Lại có thần
nhân cầm giáo hiện h́nh hộ vệ, Đức Viên và
người chép kinh đều thấy, người khác
không thấy được! Lại có phạm đồng
áo xanh, không biết từ đâu đến, tay cầm hoa
trời, chợt dâng lên cúng dường. Những chuyện
linh cảm trước sau đều giống như
vậy. Phải mất hai năm, mới chép xong kinh.
Đựng trong hộp thơm, đặt trong
trướng báu, cất trong tịnh đường.
Mỗi lần đều đảnh lễ rồi mới
chuyển đọc, hộp tỏa ra ánh sáng lạ. Nghiêm
khiết đến thế, kính trọng tuyệt cổ
siêu kim. Bộ kinh này được trao truyền
đến nay qua năm đời (Ngũ Đại), có ai
thanh tịnh chuyển đọc th́ cũng có lúc hiện
sự linh ứng rơ rệt như vậy. Bộ kinh ấy
nay được thủ hộ cúng dường ở
chỗ pháp sư Hiền Thủ chùa Tây Thái Nguyên.
Chú thích[7]:
Chuyện
này và hai chuyện tiếp theo đều là nói về
bản Lục Thập
Hoa Nghiêm (Hoa Nghiêm bản dịch gồm sáu
mươi quyển) được dịch vào đời
Tấn. Chữ Cốc 穀 đọc như chữ
Cốc 谷, thân mộc chứ không
phải thân thảo, là một loài khác của giống cây
Chử 楮 (cây dó). Đức Viên
trồng cây dó để làm giấy chép kinh. Vào trong
vườn trồng cây dó này mà c̣n phải tắm gội,
mặc y phục sạch sẽ. Do đây biết rằng:
Hằng ngày Sư lễ Phật tụng kinh, thành kính,
tịnh khiết [đến mực nào!] Người
thời nay lên Đại Hùng bảo điện c̣n
chẳng được kiền thành, thanh khiết như
sư Đức Viên vào vườn trồng cây dó. Thật
đáng cảm khái, than thở! [Trong câu “mộc cụ tân y” (dịch theo ư là “tắm rửa, vào chỗ
bẩn đều thay áo mới”)], th́ “mộc” là “mộc
thất” (nhà tắm), c̣n “tân”
nên đọc là “xúc” (dơ
bẩn), ư nói: Trong nhà tắm có áo để mặc riêng
khi vào nhà cầu. Câu “tượng
nhân trai giới, dịch phục xuất nhập”
nghĩa là những người thợ được dùng
ở đây đều phải tŕ Ngũ Giới, hằng
ngày thọ pháp Bát Quan Trai. Phàm muốn đi vệ sinh,
phải đến chỗ nhà tắm, cởi bỏ
thường phục, mặc áo dành riêng cho nhà vệ sinh.
Khi đi ra, phải tắm gội sạch rồi mới
được mặc lại thường phục.
“Tuyền tô” là những cái tua: Dùng
những sợi tơ, đầu thắt lại, cho
rủ xuống. “Bái” tức
là “xướng tán”. Ngũ
Đại là: Tề, Lương, Trần, Tùy,
Đường. Truyện này do người đời
Đường soạn, nên ghi là “cho đến nay là năm đời”. Ḷng thành
của Đức Viên siêu việt cổ kim, nên mới linh
ứng nhiều điều như thế. Người
đời nay dù không tài lực, nhưng với những
chuyện sức ḿnh làm được, há chẳng nên
dốc kiệt ḷng thành, vét tận ḷng kính để mong Tam
Bảo rủ ḷng từ, gia bị thầm kín hay rơ ràng
ư? Nếu chỉ chuộng bề ngoài, trọn chẳng
thành kính, sẽ không cách ǵ cảm thông được pháp
lực vô biên, bèn cho là Phật pháp không linh, há có được
ư? Chuyện này sao lục từ bộ Hoa Nghiêm Huyền
Đàm[8]
và dung hội hai bộ Huyền Kư223.
2) Vị tăng Tu Đức ở Trung
Sơn, Định Châu vào đời Đường, không
biết họ tên, khổ hạnh, tiết tháo thành tánh, tu
hành nơi rừng núi. Kết nghiệp an tâm nơi kinh Hoa
Nghiêm và luận Khởi Tín. Năm Vĩnh Huy thứ tư
(653), phát tâm sao chép. V́ thế, lập riêng một tịnh viện,
trồng cây dó, trồng kèm các loại hoa thơm.
Tưới bằng nước thơm, ba năm sau,
tịnh khiết làm thành giấy. Lại cất riêng
một cái đài thanh tịnh, dựng nhà trên đó. Mời
người viết chữ đẹp ở Vi Châu là
Vương Cung, trai giới nơi biệt viện, tắm
gội, mặc áo sạch, thắp hương, rải hoa,
treo các loại phan lọng, lễ kinh sám hối rồi
mới lên ṭa viết. Hạ bút xuống bèn ngậm
hương, nhấc bút lên mới thở ra. Mỗi ngày
đều như thế. Sư Tu Đức vào tịnh
thất, vận tưởng. Mỗi lần chép xong một
quyển bèn tặng mười xấp lụa mịn, một
bộ tặng tổng cộng sáu trăm tấm lụa
mịn. Ông Cung dốc kiệt ḷng chí thành, đều
chẳng nhận lấy; vừa chép xong kinh, liền
mất ngay. Do kinh đă hoàn thành, Tu Đức bèn mở trai
hội ăn mừng. Đại chúng nhóm đến, Tu
Đức đối trước Phật, đốt
hương, rải hoa, phát hoằng thệ nguyện,
rồi mới mở hộp đựng kinh, tỏa ra quang
minh lớn, chiếu khắp hơn bảy mươi
dặm, chiếu đến tận thành Định Châu. Dân
chúng trong thành đều thấy. Đại chúng
đến dự trai hội tại Trung Sơn đều
gieo thân phủ phục, nghẹn ngào khóc lóc sám hối.
Chú thích:
Truyện
này gần giống với sự tích ở phần
trước. Đủ thấy cổ nhân đối
với Tam Bảo đều kiệt thành tận kính, hoàn
toàn chẳng như người bây giờ coi thường,
khinh nhờn, hữu danh vô thực! “Nâng bút, thở ra” có nghĩa là muốn ho hắng,
hoặc muốn ngáp, đều ngừng bút một chút,
mặt hướng sang phía bên cạnh, thở hơi ra,
chẳng dám để hơi thở xông vào kinh. “Vừa chép kinh xong, ngay lập
tức bèn mất” nghĩa là do chuyên tâm chép kinh, chẳng
cầu danh lợi, chí thành đến cùng cực,
đến nỗi nghiệp tận t́nh không, liễu sanh
thoát tử, cao đăng sen
223.
Tức
là Hoa Nghiêm Sưu Huyền Kư (gọi đủ là
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Sưu
Huyền Phận Tề Thông Trí Phương Quỹ) do ngài
Trí Nghiễm soạn vào đời Đường nhằm
giải thích kinh Hoa Nghiêm. Nội dung nêu lên cương
yếu huyền nghĩa của kinh và giải thích
đại lược kinh văn. Bộ thứ hai là Hoa
Nghiêm Kinh Thám Huyền Kư do ngài Pháp Tạng (cũng sống
vào đời Đường) soạn nhằm đặc
biệt phát huy giáo nghĩa Thập Huyền Môn
được giảng trong phần huyền nghĩa trong
bộ Hoa Nghiêm Sưu Huyền Kư.
báu thượng phẩm, tự chứng
địa vị Bất Thoái. Xem đây có thể biết
Phật pháp chẳng cô phụ con người, nhưng
Tăng, tục thời nay đa phần đều cô
phụ Phật pháp. Biết làm sao được!
Chuyện này gộp từ hai sách Huyền Kư.
3) Sư Pháp Thành đời
Đường, họ Phan, người huyện Vạn
Niên thuộc Ung Châu, xuất gia từ nhỏ, lấy
việc tụng Hoa Nghiêm làm sự nghiệp. Do gặp
Huệ Siêu thiền sư ẩn cư trong ngọn núi cao
Lam Cốc, bèn vứt bỏ phiền hoặc, dốc ḷng
thành cầu học. Về sau, Sư tạo Hoa Nghiêm
Đường ở ngọn núi phía Nam chùa, trong ngoài
đều trong sạch. Trang nghiêm xong xuôi, bèn vẽ
cảnh bảy xứ chín hội224. Lại dốc
cạn ḷng chí thành tinh chuyên, biên chép, thọ tŕ. Hoằng
Văn học sĩ Trương Tịnh, là người
chữ đẹp nổi tiếng tài hoa hăn hữu khi
ấy. Sư bèn thỉnh đến sơn xá, bảo hăy
thọ trai giới, khiết tịnh tự tu. Miệng
ngậm nước thơm, thân mặc áo sạch.
Trương Tịnh chép kinh lâu ngày, mỗi trang giấy
đ̣i giá năm mươi đồng. Sư Pháp Thành
liệu trước, vừa chép hai trang, đă ứng
trước năm trăm. Trương Tịnh
được lợi, dốc sức chép. Cho đến
hết bộ kinh, Pháp Thành hằng ngày đều
224.
Bảy
xứ chín hội: Kinh Hoa Nghiêm được nói ở
bảy nơi, chia thành chín hội. Căn cứ theo kinh Bát
Thập Hoa Nghiêm th́:
1)
Hội
thứ nhất tại Bồ Đề đạo tràng
gồm sáu phẩm, mười một quyển. Phổ
Hiền Bồ Tát giảng về y báo nhân quả của
đức Tỳ Lô Giá Na Phật.
2)
Hội
thứ hai giảng tại điện Quang Minh, cũng là do
Phổ Hiền Bồ Tát nói về chánh báo nhân quả
của Phật, gồm ba phẩm. Nửa phần sau
hội thứ hai, Văn Thù Bồ Tát giảng Thập Tín,
giảng về Sơ Phát Tâm, tổng cộng ba phẩm.
3)
Hội
thứ ba trên trời Đao Lợi, giảng trên cung
trời Đao Lợi do Pháp Hội Bồ Tát chủ
giảng. V́ thế, hội thứ ba do Pháp Hội Bồ
Tát giảng Thập Trụ, có sáu phẩm, ba quyển.
4)
Hội
thứ tư tại trời Dạ Ma, do Công Đức Lâm
Bồ Tát giảng pháp môn Thập Hạnh, cũng gồm
bốn phẩm, ba quyển.
5)
Hội
thứ năm trên trời Đâu Suất – Di Lặc Bồ
Tát sống trên trời Đâu Suất – Hội này do Kim Cang
Tạng Bồ Tát giảng pháp môn Thập Hồi
Hướng, có ba phẩm, gồm mười hai quyển.
6) Hội thứ sáu tại trời Tha Hóa Tự Tại, do
Kim Cang Tạng Bồ Tát làm hội chủ, giảng pháp môn
Thập Địa. Hội này chỉ có một phẩm,
nhưng là một phẩm rất dài, dài đến cả
sáu quyển. 7) Hội thứ bảy lại là điện
Phổ Quang Minh, trong hội này, đức Phật làm
chủ, giảng về Đẳng Giác, về Diệu Giác.
Phần này gồm mười một phẩm, mười
ba quyển.
8)
Hội
thứ tám cũng tại điện Phổ Quang Minh,
Phổ Hiền Bồ Tát giảng, chủ yếu nói về
các pháp môn tu hành. Phổ Hiền Bồ Tát nói hai ngàn pháp môn
tu hành. Phần này chỉ có một phẩm, gồm bảy
quyển.
9)
Hội
thứ chín tại rừng Thệ Đa, tức là
vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, diễn
tả cuộc cầu pháp tham học với năm
mươi ba vị thiện tri thức của Thiện Tài
Đồng Tử.
thiêu hương cúng dường trước
án. Trong khi vẽ vời, tâm duyên theo, mắt nh́n chăm chú,
trọn chẳng sót chút nào. Do dốc ḷng chăm chú, khi
đó cảm được con chim lạ, h́nh sắc
hiếm có trong đời, bay vào trong nhà, bay quanh quẩn
cổ vũ, đáp xuống án kinh, rồi lại
đậu lên lư hương, lặng lẽ đứng
nh́n, tự nhiên như thân quen, một hồi lâu sau bay
đi.
Năm
sau, kinh chép xong, sắp sửa ăn mừng, chim lại bay
tới, lẩn quẩn như trước, hót tiếng
thánh thót. Năm đầu niên hiệu Trinh Quán (627), Sư
vẽ h́nh ngàn vị Phật, chim lại bay tới,
đậu trên lưng người thợ. Sau Sư mở
trai hội, cúng mừng các kinh tượng. Trong ngày hôm
ấy, Sư lấy làm lạ không thấy chim đến,
nh́n lên đỉnh núi nói: “Chim
đă không đến, ta thật không cảm
[được chim]. Phải chăng hiềm v́ có các
uế hạnh nên mới có điềm này?” Nói xong, chim
đột nhiên bay đến chao lượn kêu hót,
đậu vào trong nước thơm, nhảy nhót tắm
gội, rồi lại bay đi. Trước sau đều
như thế, không cần phải nhắc lại.
Trương Tịnh khéo tài bút mực, nên được
trong làng đề cử, các bài kinh kệ được
khắc trên vách núi bên đường đều do ông ta
viết. Ông chép Pháp Hoa ở ngay nơi đất trống.
Nhân có chuyện phải đi nơi khác, chưa kịp
đem cất. Mưa to như trút, khe, suối đều
ngập tràn. Chạy đến xem thấy cả án kinh
đều khô ráo, c̣n những thứ khác đều
ướt đẫm. Ông từng tựa vào cây tùng mọc
ngang, bị té xuống ḍng suối chảy xiết, chưa
trôi đến khe nước bên dưới, bất giác đă
lên được bờ cao, chẳng tổn hại
một mảy lông.
Chú thích:
Pháp Thành, Trương Tịnh
đều dốc kiệt ḷng thành kính nên được
cảm ứng, đều khó thể nghĩ bàn. Truyện
này trích từ Hoa Nghiêm Huyền Đàm và dung hội hai sách
Huyền Kư và Tục Cao Tăng Truyện.
4) Sư
Đàm Vận đời Đường, người
Định Châu. Năm bảy mươi tuổi, nhằm
lúc cuối đời Tùy đất nước loạn
lạc, bèn ẩn cư trong Ly Thạch Bắc Thiên Sơn,
thường tụng kinh Pháp Hoa. Sư muốn chép kinh này,
nhưng không ai cùng chí hướng. Qua nhiều năm
như thế, chợt có người thư sinh không
biết từ đâu đến, nói muốn tắm gội
sạch sẽ, rồi mới chép được. Liền
vào lúc sáng sớm, ăn xong, tắm gội, mặc áo sạch,
thọ tám giới, vào tịnh thất, miệng ngậm
đàn hương, đốt hương, treo phan, lặng
lẽ sao chép, đến chiều mới ra. Hôm sau lại
như trước, chưa từng than mệt. Đến
khi kinh chép xong, Sư đúng pháp dâng tiền công, đưa
ra ngoài cửa, liền chẳng thấy đâu nữa. C̣n
như trang hoàng [bản kinh đă chép], một mực
đúng chánh pháp, Đàm Vận thọ tŕ, đọc
tụng, thắt trong bảy lớp bọc. Cứ mỗi
một lớp là một lượt dùng nước thơm
rửa tay. Lúc đầu chưa từng tạm sót, sau
gặp phải giặc Hồ, bèn bỏ kinh trong
rương, đặt trên ngọn núi cao. Năm sau,
giặc yên, t́m lại, nhưng không thấy. Lục t́m cùng
khắp, cuối cùng t́m được rương
dưới vách đá. Vải bọc rương đă
mục nát ră rời, bới gỗ mục ra, thấy kinh
vẫn tốt nguyên y như cũ.
Chú thích:
Chép kinh
tâm chí thành, cảm thánh chúng ứng đến. Thánh tuy
ứng hiện, nhưng thị hiện giống như phàm
phu. V́ thế, một mực theo đúng pháp: Sáng sớm,
ăn xong bèn tắm gội, mặc áo sạch… “Tám giới” là Bát Quan Trai pháp.
Lấy việc quá Ngọ không ăn để làm Thể,
lấy tám giới như không giết v.v… để hỗ
trợ nhằm đóng lấp các phiền năo Hoặc nghiệp
tham, sân, si v.v… chẳng cho sanh khởi. Đây chính là
khiến cho người tại gia thọ giới xuất
gia. Kỳ hạn thọ giới này là từ lúc sáng sớm
ngày hôm nay cho đến rạng sáng ngày hôm sau. Do chép kinh
hằng ngày phải tŕ, v́ thế phải hằng ngày
thường thọ. “Đến
chiều mới ra” tức là giờ Ngọ cũng không
ăn. Chữ Khỏa 裹âm đọc giống
như chữ Quả, tức là cái bao. “Mỗi một lớp bao là một lượt
rửa tay bằng nước thơm”, tức là
đọc một hồi kinh, bèn dùng nước thơm
rửa tay một lượt. “Vải
bọc rương mục nát mà kinh vẫn c̣n nguyên,
đẹp đẽ” th́ một là do được pháp
lực của thánh nhân gia tŕ, hai là do thành tâm của ngài
Đàm Vận chiêu cảm, ba là do công đức khó thể
nghĩ bàn của bộ kinh mầu nhiệm này. Về sau,
sư Đàm Vận trụ tại Thấp Châu. Năm Trinh
Quán thứ mười một (637), Đạo Tuyên luật
sư đă đến gặp Sư. Khi ấy, Sư niên
kỷ đă bảy mươi. Những chuyện tiếp
theo đây đều trích từ Tam Bảo Cảm Thông
Lục[9].
5). Năm
Trinh Quán thứ năm (631) đời Đường, có
ông Lệnh Hồ Nguyên Quỹ ở huyện Ba Tây, Long Châu,
kính tín Phật pháp, muốn chép kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Bát Nhă, Niết
Bàn v.v… nhưng không cách nào tự kiểm lại
được, bèn nhờ Kháng thiền sư ở nơi
ấy kiểm giảo. Thầy Kháng bèn ở trong chùa,
khiết tịnh đúng pháp. Chép xong cuốn cuối, bèn
đưa về trang trại tại Kỹ Châu, giữ kinh
trong trang và năm ngàn lời của Lăo Tử cùng
để một chỗ, chợt bị lửa bên ngoài cháy
lan đến, nhà lợp bằng cỏ, bị lửa cháy
sạch hết. Khi ấy, ông Quỹ đang làm huyện
lệnh ở Bằng Dực, gia nhân liều mạng
bới tro, lôi được ống đồng pha vàng
đựng kinh ra khỏi tro. Các kinh đựng trong
ống vẫn như cũ không bị hư hại ǵ, màu
sắc đẹp đẽ không thay đổi. Chỉ có
lớp bọc là biến thành tro. Lại t́m kinh của Lăo
Tử, nó đă bị cháy tiêu. Họ bèn thâu thập các kinh
ấy, người trong làng xóm đều khen là lạ lùng.
Quyển kinh Kim Cang Bát Nhă, hàng chữ ghi tựa đề
bị cháy đen, hỏi đến nguyên do, th́ ra lúc
viết tựa đề kinh, có vị quan trong châu viết
chữ đẹp, vị này đi gấp, không giữ
khiết tịnh mà cất bút viết ngay. Do vậy,
đề kinh bị lửa đốt. Người này
hiện vẫn c̣n sống, những kinh tốt lành ấy
vẫn c̣n. Chủ Thần Tế ở chùa Tây Minh tại
kinh đô chính mắt chứng kiến, kể lại.
Chú thích:
“Năm ngàn lời của
Lăo Tử” chính
là Đạo Đức Kinh. Hết thảy Phật sự
đều lấy giới hạnh, thành kính làm chủ.
Nếu giới hạnh tinh nghiêm, thành kính, chuyên dốc th́
Tam Bảo chư thiên sẽ đều ủng hộ.
Nếu không, sẽ không cách nào cảm được vô biên
pháp lực. Xem thấy những kinh ấy không bị
tổn hại mảy may, chỉ có tựa đề kinh
Kim Cang nét chữ bị cháy đen là do người ấy
đă không có giới lực, lại không thành tâm vậy!
Người thọ tŕ kinh Phật há chẳng lấy
việc tŕ giới dốc cạn ḷng thành làm nhiệm
vụ cấp bách ư?
5) Đời
Đường, ở Hà Đông, có ni sư tên Luyện
Hạnh thường tụng kinh Pháp Hoa, mời
người viết chữ đẹp chép kinh, phải
trả công cao gấp nhiều lần, nhưng khiết
tịnh, ân cần quả thật có thừa! Cứ mỗi
lần khởi đầu là một lần tắm,
đốt hương xông áo, thở vào ống đồng
thông ra ngoài vách. Chép hết bảy quyển phải tám
năm mới xong. Sư Pháp Đoan chùa Long Môn nhóm chúng
giảng thuyết, mượn ni sư bộ kinh ấy
để thẩm định. Cố nhiên ni sư không cho,
Pháp Đoan quở trách. Sự chẳng đặng
đừng, ni sư bèn tự đem đưa cho Pháp
Đoan. Pháp Đoan mở ra đọc, chỉ thấy giấy
vàng, trọn chẳng có chữ nào! Các quyển khác cũng
vậy. Đoan hổ thẹn, đưa trả cho ni
sư. Ni sư buồn khóc, nhận lấy. Dùng nước
thơm rửa hộp đựng kinh, đội lên
đầu nhiễu Phật bảy ngày không nghỉ. Mở
ra xem, chữ hiện như cũ. Khi ấy nhằm năm
Trinh Quán thứ hai (628), Sư Pháp Đoan tự kể
chuyện này (tôi vốn muốn sao chép rộng răi những
lợi ích do cung kính Tam Bảo và những tội khiên do
khinh nhờn Tam Bảo, để người nghiên cứu
học Phật có cơ sở để giữ pháp, không do
đâu mắc tội, nhưng v́ mục lực chẳng
đủ nên đành ngưng).
[1] . Theo Lư Hồng Nham, trong bài Sử Thuật Thông Quán Kinh Thuật, th́ Kinh Thuật chính là nghệ thuật cai trị, nghệ thuật chính trị, hoặc nói rộng hơn là ứng dụng lễ và những lư thuyết vào thực tế.
[2] . Quản Tử: Một bộ sách thời cổ gồm 24 quyển, tác giả có thể là Quản Trọng thời Chiến Quốc (theo từ điển Từ Hải)
[3] . Theo sách Trang Tử, thiên Đạt Sinh, có câu chuyện: Vào tiết Hạ, Khổng Tử dẫn học tṛ sang nước Sở, nghỉ chân trong bóng mát tại một khu rừng, trong rừng có một ông lăo dùng gậy dính nhựa để bắt ve sầu. Thấy ông ta bắt ve quá dễ dàng, mọi người nh́n say mê. Khổng Tử hỏi: “Sao ông bắt ve khéo thế? Có bí quyết ǵ không?” Ông lăo đáp: “Đương nhiên là có! Loài ve nhỏ này rất tinh ranh, gió thổi động cỏ nó chạy mất ngay, do vậy trước tiên phải luyện sao cho tay cầm cành tre không run rẩy. Tập đến mức ném hai viên bi vào cành tre chẳng rung động, sẽ nhất định bắt được ve…. Cho đến khi ném năm viên bi vào cành tre chẳng run tay, sẽ bắt ve như tiện tay tóm lấy vậy. Tôi đứng dưới gốc cây như cành cây khô, duỗi tay ra như nhánh cây. Cuối cùng, khi tôi bắt ve, bất kể trời đất bao lớn, vạn vật nhiều thế nào, tôi chỉ thấy hai cánh của con ve, chẳng cần biết t́nh huống chung quanh ra sao, không phân tán được ư lực của tôi”. Do từ câu chuyện này, mới có thành ngữ “khom lưng đón ve” (câu lũ thừa điêu), ư nói tập luyện tinh thục, chuyên nhất, không c̣n bị phân tâm.
[4] . Pháp Hiển là một vị cao tăng đời Tấn (không rơ năm sanh và năm mất), người xứ Vũ Dương (nay là Thiểm Tây). Xuất gia từ ba tuổi, 20 tuổi thọ Cụ Túc Giới, cảm thán t́nh trạng kinh luật c̣n thiếu sót, bèn cùng đồng học là Huệ Cảnh, Đạo Chỉnh, Huệ Ứng, Huệ Nguy, rời Trường An vào năm Long An thứ ba (399), sang tận Ấn Độ cầu pháp. Ngài đi hơn 30 nước, đến năm Nghĩa Hy thứ 9 (413) mới về Trung Hoa, đem về rất nhiều bản kinh Phật bằng tiếng Phạn. Tại Trường An, Sư hợp sức cùng Phật Đà Bạt Đà La dịch Ma Ha Tăng Kỳ Luật, Đại Bát Nê Hoàn Kinh, Tạp Tạng Kinh, Tạp A Tỳ Đàm Tâm Luận. Ngài c̣n soạn bộ Phật Quốc Kư ghi lại cuộc viễn tŕnh cầu pháp của ḿnh.
Đàm Vô Kiệt (Dharmodgata): Cao Tăng đời Đường, người U Châu, họ Lư, siêng tu khổ hạnh, nghe chuyện ngài Pháp Hiển sang Ấn Độ cầu pháp, rất hâm mộ, lập chí noi theo. Ngài đi từ xứ Lưu Sa, qua Quy Tư, Sớ Lặc, đến tận Kế Tân, cầu được kinh Quán Thế Âm Thọ Kư bằng tiếng Phạn. Không rơ năm sanh và năm mất.
[5] . Cốc: Một loại cây có tên khoa học là Broussonetia Papyrifera, vỏ thường được dùng để làm giấy (theo Trần Văn Chánh). “Chử” là cây dó (vỏ được dùng để làm giấy bản).
[6] . Cách thức quỳ lễ của người Hồ (từ thời cổ, Ấn Độ hay những xứ phía Tây Trung Hoa đều được gọi là Hồ), có nhiều cách hiểu khác nhau: a. Chỉ gập gối là hồ quỳ.
b. Hồ quỳ là trường quỳ, tức là đặt sát hai đầu gối sát đất, hai đùi dựng thẳng lên theo thân ḿnh.
c. Gối hữu đặt sát đất, gối trái dựng lên
[7] . Đây là phần giải thích của tổ Ấn Quang đối với câu chuyện vừa được sao lục.
[8] . Hoa Nghiêm Huyền Đàm: Tác phẩm của ngài Trừng Quán soạn vào đời Đường, gọi đủ là Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao Huyền Đàm, gồm chín quyển. Tác phẩm này tŕnh bày cương yếu của bộ Bát Thập Hoa Nghiêm, hiển dương những ư nghĩa chánh yếu của tông Hoa Nghiêm. Nội dung được chia thành nhiều phần như luận về nhân duyên, tạng giáo, nghĩa lư, căn cơ được hóa độ bởi kinh này, giáo thể, tông, thú, bộ loại, phẩm, hội của kinh, những chuyện cảm ứng… Tác phẩm này thật ra là những phần liên quan đến huyền nghĩa trong bộ Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao được trích riêng ra.
[9] . Tác phẩm của ngài Đạo Tuyên Luật Sư soạn vào đời Đường, gồm 3 quyển, có tên gọi đầy đủ là Tập Thần Châu Tháp Tự Tam Bảo Cảm Thông Lục; đôi khi c̣n gọi là Đông Hạ Tam Bảo Cảm Thông Lục. Nội dung chép về sự tích xá-lợi Phật, tượng Phật, chùa Phật, kinh điển và chuyện linh dị của hàng Tăng, tục.